Tôi làm theo, rót ra ít nhất hai lóng tay thứ chất đen ngòm kia. Rồi tôi đun
nước và đổ nước sôi gần đến miệng tách.
“Uống đi Meg,” Thầy Trừ Tà bảo bà ấy khi tôi đưa thầy cái tách nghi ngút
hơi nước. “Bà cần thứ này vì thời tiết đang trở lạnh có thể khiến xương cốt
bà đau nhức.”
Meg mỉm cười với Thầy Trừ Tà và trong vòng mười phút bà đã uống cạn,
rồi đầu bà bắt đầu gà gật. Thầy Trừ Tà đưa cho tôi chiếc chìa khóa cổng sắt
dưới cầu thang, bảo tôi đi trước dẫn đường. Đoạn thầy bế bổng Meg lên như
thể bà ấy chỉ là một đứa bé rồi theo sát gót tôi.
Tôi mở khóa cổng ra, đi xuống mấy bậc thang và đợi bên ngoài cánh cửa
chính giữa trong khi thầy tôi bế bà Meg vào trong căn phòng tối om. Thầy
để cửa mở nên tôi có thể nghe rõ từng lời thầy nói với bà ấy.
“Chúc ngủ ngon, tình yêu của ta,” thầy nói. “Hãy mơ đến khu vườn của
chúng ta nhé.”
Tôi biết lẽ ra mình không nên nghe lỏm, nhưng chuyện đã lỡ rồi, và tôi có
chút xấu hổ khi nghe thấy không phải ai khác mà là chính thầy mình nói
năng như thế.
Với lại Thầy Trừ Tà đang nói đến khu vườn nào nhỉ? Có phải thầy muốn
ám chỉ mấy khu vườn ở Chipenden chăng? Nếu thế, tôi hy vọng ý thầy là
khu vườn phía tây trông ra rặng đồi đá. Còn hai khu vườn kia, nơi toàn là hố
nhốt ông kẹ và mồ chôn phù thủy ấy, thì không đáng để nghĩ đến làm gì.
Meg không đáp lại lời nào, nhưng hẳn Thầy Trừ Tà đã đánh thức bà ấy
khi thầy bước ra ngoài khóa cửa lại, bởi vì đột nhiên bà bắt đầu khóc rên
như một đứa bé hãi sợ bóng tối. Nghe thấy thế, Thầy Trừ Tà dừng lại và
chúng tôi đứng chờ ngoài cửa thật lâu cho đến khi cuối cùng tiếng khóc
cũng lịm dần và được thay thế bằng những âm thanh khẽ khàng hơn. Tôi
nghe rõ tiếng hơi thở rít lên qua hàm răng của Meg khi bà thở hắt ra.
“Giờ bà ấy ổn rồi ạ,” tôi lặng lẽ thưa với thầy mình. “Bà ấy đang ngủ.
Con có thể nghe thấy bà ấy ngáy kìa.”