viên đá to hơn hẳn rơi xuống, chỉ cách đầu tôi trong gang tấc. Chẳng mấy
chốc đá sỏi đủ cỡ đủ loại bắt đầu rơi xung quanh chúng tôi, vài viên đá đủ to
để gây ra chấn thương nghiêm trọng.
Thầy Trừ Tà chỉ thanh trượng về hướng nông trang và, ngạc nhiên làm
sao, thầy bắt đầu dẫn đường quay trở xuống hẻm núi. Chúng tôi lẹ làng di
chuyển, tôi chật vật lắm mới theo kịp, chiếc túi trở nặng theo mỗi bước đi,
bùn đất dưới chân tôi trơn tuột. Mãi tới khi đến được nông trang, chúng tôi
mới ná thở mà dừng lại.
Đá đã ngừng rơi nhưng một trong số chúng đã kịp gây ra tổn thất. Trên
trán Thầy Trừ Tà có một vết cắt và máu đang nhỏ xuống. Cũng không
nghiêm trọng và đe dọa đến sức khỏe của thầy, nhưng trông thầy bị thương
như thế khiến tôi lo lắng.
Tên kẹ ném đá đã giết chết một người đàn ông, ấy vậy mà bằng cách nào
đó, thầy tôi – người đã qua thời sung sức – lại sắp phải đối mặt với nó. Tôi
biết ngày mai thầy thật sự cần đến sự trợ giúp của mình. Nhất định ngày mai
sẽ là một ngày kinh hoàng.
Henry Luddock chào đón chúng tôi khi chúng tôi quay lại nông trang.
Chẳng bao lâu sau chúng tôi được mời vào ngồi trong gian bếp nhà ông,
trước lò sưởi củi cháy phừng phừng. Henry là một người đàn ông to con, vui
tính, mặt đỏ lựng, người không để mối đe dọa từ ông kẹ làm mình chùn
lòng. Ông rất buồn về cái chết của người chăn cừu mà mình thuê về, nhưng
ông lại rất tử tế và chu đáo với chúng tôi, lại còn muốn tiếp đón chúng tôi
bằng một bữa tối thịnh soạn.
“Cảm ơn vì đã mời nhé Henry,” Thầy Trừ Tà lịch sự từ chối. “Anh thật tốt
bụng, nhưng chúng tôi không bao giờ làm việc với cái dạ dày no căng cả.
Làm thế chỉ tổ rước thêm rắc rối thôi. Nhưng mọi người cứ việc ăn uống và
ăn bao nhiêu tùy thích.”
Thật đáng buồn cho tôi vì đấy chính xác là điều mà gia đình Luddock đã
làm. Họ an tọa và chén đẫy những suất bánh nướng nhân thịt bê to tướng,