càng nhanh càng tốt, nhưng chập sau tôi đã đang đứng trên mặt sỏi và ngay
lập tức phóng chạy ra phía cổng. Tôi cũng có liếc lại ra sau một hai lần
nhưng không thấy có dấu hiện truy đuổi. Khi đã thoát khỏi khuôn viên điền
trang Read, tôi hướng lên hướng bắc băng qua trảng hươu, chạy thục mạng
về Downham.
Theo đường chim bay thì khoảng cách giữa điền trang Read và Downham
chắc không hơn năm sáu dặm, nhưng địa hình lên dốc xuống đồi cam go có
nghĩa là trên thực tế khoảng cách ấy phải xa hơn hẳn. Tôi phải chạy về
Downham rồi quay lại đây trước khi trời tối, và tôi cần chạy ít nhất là một
phần của quãng đường này. Có vẻ là hợp lý nếu tôi dứt điểm chuyến hành
trình đầu tiên càng nhanh càng tốt, nhờ thế đoạn đường quay trở lại sẽ được
dễ dàng với vận tốc dễ thở hơn, bởi vì đến lúc đấy tôi đã thấm mệt rồi.
Sau khoảng chừng một hai dặm, tôi chạy chậm lại bằng vận tốc đi bộ
nhanh. Chuyến đi tiến triển khá tốt nên vừa đi qua mốc mà theo tôi là điểm
giữa chặng, tôi cho phép mình nghỉ chân năm phút, xoa dịu cơn khát bằng
vốc nước suốt mát lạnh. Nhưng khi tôi khởi bước đi tiếp, dường như chuyến
đi lại khó nhằn hơn nhiều. Việc nhịn đói là ý không tồi khi phải đối mặt với
thế lực bóng tối, nhưng làm thế không đem lại lợi ích gì khi bạn phải dốc
sức thật nhiều, và tôi đã không ăn gì từ bữa điểm tâm ngày hôm trước với
món thịt cừu nguội ngắt: người tôi vô lực và bắt đầu rề rề rà rà. Nhưng dù có
thế, tôi vẫn nghĩ đến cha Stocks mà nghiến răng, buộc mình chạy thêm dặm
nữa trước khi lại giảm tốc xuống ngang với vận tốc đi bộ nhanh. Tôi biết ơn
đám mây đã che chắn sức nóng mặt trời khỏi đầu mình lắm lắm.
Tôi tiếp tục nuôi hy vọng sẽ gặp được Thầy Trừ Tà và Alice nhưng chẳng
nhìn thấy bóng dáng hai người ấy đâu. Khi đến được ven rìa vùng
Downham, bất chấp tôi đã cố sức đi thật nhanh, giờ đã là giữa trưa, thế là tôi
chẳng tơ tưởng gì đến viễn cảnh của chuyến hành trình quay trở lại điền
trang Read.
Nhưng đến Downham rồi, thật đáng lo làm sao, Thầy Trừ Tà không có
mặt tại đấy.