cẳng. Cha Stocks và hai gã mõ tòa làm theo tôi. Tất cả bọn tôi đều chăm chú
nhìn vào tòa tháp nhưng chẳng có gì xảy ra.
Sau một phút ngài Nowell sốt ruột thở dài, thúc ngựa thẳng đến mép hào
và lớn tiếng gọi: “Nhân danh luật pháp, hãy mở cửa ra mau!”
Trong một đỗi chỉ có sự im lặng bao trùm, ngoại trừ tiếng bầy ngựa thở
phì phò.
Thế rồi giọng một phụ nữ từ một trong những khe bắn tên vọng xuống.
“Xin hãy kiên nhẫn trong lúc chúng tôi hạ cây cầu xuống. Xin hãy kiên nhẫn
trong khi chúng tôi sửa soạn lối vào...”
Mụ vừa nói xong đã nghe vang lên tiếng tời quay ken két và xích sắt va
loảng xoảng; cây cầu chầm chậm hạ xuống. Giờ đây tôi có thể quan sát cây
cầu rõ hơn. Những sợi xích được mắc vào hai góc cầu rút bằng gỗ nặng trịch
và được dẫn qua các khe trên vách đá vào trong căn phòng bên trong tháp.
Chắc chắn lúc này đang có nhiều người cùng quay tời để nới dài sợi xích.
Và rồi, trong lúc cây cầu rùng rùng giần giật hạ xuống, tôi nhìn thấy cánh
cửa tán đinh sắt đáng sợ ẩn đằng sau đấy. Cánh cửa này kiên cố cỡ mấy bức
tường đá là ít. Rõ ràng không thứ gì có thể vượt qua những hàng phòng thủ
vững chắc như thế.
Cuối cùng chiếc cầu kéo cũng hạ xuống ngay ngắn, chúng tôi mong đợi
cánh cửa lớn kia cũng sẽ mở ra. Tôi bắt đầu thấy bồn chồn. Trong tháp có
bao nhiêu người nhỉ? Sẽ có phù thủy lẫn những kẻ ủng hộ cho chúng, trong
khi chúng tôi chỉ có bảy mạng. Một khi chúng tôi vào bên trong rồi, bọn
chúng chỉ việc đóng cửa lại, thế là chúng tôi sẽ bị cô lập khỏi thế giới bên
ngoài và sẽ thành tù nhân mất.
Nhưng chẳng có động tĩnh gì và từ trong tòa tháp cũng không vọng ra âm
thanh nào. Ngài Nowell quay lại và ra hiệu cho cảnh sát Barnes đi đến cạnh
mình bên hào nước, tại đây ông ta đưa ra vài chỉ thị. Viên cảnh sát lập tức
xuống ngựa và bắt đầu băng qua cầu. Khi đến cửa, anh ta đấm mạnh lên lớp
kim loại. Khi tiếng động ấy vang lên, một đàn quạ vụt bay lên khỏi rừng cây
phía sau tòa tháp và bắt đầu kêu quang quác khàn khản.