cho mình bị ướt nước. Hai con chó có vẻ không màng đến chuyện đó và bơi
rất khỏe, chúng đến được bờ bên kia trước mấy con ngựa rõ lâu.
Chúng tôi leo xuống cuốc bộ thêm một chập cho đến khi đến lòng sông
Kent, trông như có cùng một độ sâu như con sông trước.
“Cháu chẳng muốn ở đây khi triều lên đâu ạ!” Tôi nhận định.
“Chắc chắn là không rồi, cậu Ward. Khi triều dâng thì mực nước có thể
ngập gấp ba thân người cậu hay còn hơn ấy chứ. Nhìn thấy đằng kia
không?” Ông Arkwright vừa hỏi vừa chỉ tay về phía đất liền.
Tôi trông thấy mấy sườn dốc đầy cây cùng mấy rặng đồi đá tia tía trồi lên
bên trên ấy.
“Là rặng đồi đá nằm phía sau Cartmel – chúng ta đang đi đến đấy. Chẳng
bao lâu nữa sẽ đến thôi.”
Lộ trình băng qua lòng sông khoảng chừng chín dặm nhưng ông
Arkwright bảo không phải khi nào cũng được như vậy. Dòng chảy sông
Kent liên tục đổi chiều nên khoảng cách đến những nơi lội qua an toàn
thường khác nhau. Quả là một nơi nguy hiểm, nhưng quãng đường lại ngắn
hơn nhiều nếu cứ đi theo đường vòng uốn quanh vịnh.
Chúng tôi đến được nơi gọi là bờ Kent, ở đấy, sau khi trả công và cám ơn
người dẫn đường, chúng tôi rời khỏi bãi cát phẳng rồi bắt đầu đi lên, tiến về
Cartmel, việc này mất gần một giờ đồng hồ. Chúng tôi đi qua một tu viện,
vài quán rượu cùng chừng ba mươi nhà dân. Nơi này gợi cho tôi nhớ đến
Chipenden, với những đứa bé đói ăn đứng ở lối cửa nhìn ra chòng chọc cùng
vùng đồng ruộng bao quanh tiêu điều chẳng có bóng dáng gia súc. Tác động
của cuộc chiến tranh đang lan rộng và chắc chắn là sẽ bắt đầu tàn phá ghê
gớm hơn. Tôi tưởng chúng tôi sẽ dừng chân nghỉ qua đêm tại Cartmel nhưng
hình như công việc của chúng tôi lại ở nơi xa hơn thế.
“Chúng ta sẽ ghé thăm Judd Atkins, vị ẩn sĩ sống trên mấy rặng đồi đá
kia,” ông Arkwright nói mà không buồn nhìn sang tôi. Ánh mắt ông dán
chặt vào sườn dốc dựng đứng trước mặt.