thế một cách hung hăng thô bạo. Chắc chắn thái độ hành xử của người thầy
mới này là lỗi do rượu mà ra.
Chúng tôi nhanh chóng đến được dãy gò đất. Ông Arkwright dừng bước,
đưa tay che mắt nhìn mặt trời lặn. Tôi thấy bên dưới là một căn nhà, khói
nâu đang bốc lên gần như là thẳng đứng từ ống khói. Rõ ràng đây từng là
một nông trại trên đồi chuyên chăn nuôi cừu, nhưng giờ đây không thấy
bóng dáng con thú nào.
“Vậy đấy, kia rồi!” Ông nói. “Nông trại Saltcombe. Ta hãy đi xuống dưới
giải quyết cho xong nào...”
Arkwright sải bước xuống sườn đồi, chẳng buồn tránh né ẩn mình gì sất.
Đến thung lũng, ông đi thẳng tới cửa trước, tôi cứ ngỡ cửa sẽ bật mở vào bất
cứ lúc nào và lũ kia sẽ xông ra tấn công chúng tôi. Khi chỉ còn cách chừng
hai mươi bước, Arkwright dừng lại và quay sang đối mặt tôi, hất đầu về phía
hai con chó.
“Cậu giữ chặt vòng cổ của bọn nó và đừng thả tay ra đấy,” ông ra lệnh.
“Khi tôi la ‘Ngay!’ thì cậu hãy thả. Nhưng không được làm trước khi có
lệnh. Hiểu chưa?”
Tôi dè dặt gật đầu rồi tóm lấy dây tròng cổ của hai con chó khi chúng
rướn về trước. Nếu chúng muốn đi, tôi chẳng có cách nào ngăn chúng lại.
“Lỡ có chuyện gì không ổn thì sao ạ?” Tôi hỏi. Trong nhà có năm tên lính
– chắc là vẫn còn trang bị dùi cui và gươm dao. Tôi nhớ đến những gì bà lão
từng kể về anh cảnh vệ trong vùng. Bọn chúng đã đánh anh ta thừa sống
thiếu chết.
“Này cậu Ward,” ông Arkwright khinh bỉ đáp lại, “nếu có thứ gì tôi không
thể chịu được, thì đấy là một kẻ yếm thế. Hãy cứ tin cậu có thể thì cậu đã
thắng được nửa trận trước khi ra tay rồi. Tôi sẽ giải quyết lũ này cho xong,
sau đó tiếp tục công việc của mình. Đây, trông chừng cái này cho tôi,” ông
quẳng túi đồ xuống dưới chân tôi. Đoạn ông quay ngược đầu trượng để lưỡi
giáo chết người chĩa xuống đất. Điều này cho thấy ông không muốn gây ra
tổn hại vĩnh viễn cho đám lính kia.