soát quanh bản đồ. Chẳng mấy chốc tay ông lại giật. Trong tích tắc, ngón tay
đứt lại nhảy nhót trên đầu sợi dây khi vị ẩn sĩ tìm ra vị trí thứ ba. Cứ mỗi lần
như thế, ông Arkwright cẩn thận đánh dấu địa điểm. Vị ẩn sĩ tiếp tục tìm
kiếm nhưng không còn tìm được gì khác để báo cáo.
Cả ba dấu chữ thập đều nằm phía tây vùng Hồ Coniston: điểm đầu tiên là
bên bờ tây bắc; điểm thứ hai được đánh dấu là một hồ nước nhỏ - hồ Con
Dê; điểm thứ ba, ngược tít lên phía bắc, hồ Leven.
“Vậy ra đây là tất cả ư, bạn già, hay là ông chỉ không chắc?” Arkwright
hỏi, giọng rặt nôn nóng.
“Cần chắc chắn đúng ư? Chúng ta phải luôn chừa chỗ cho nghi ngờ chứ,
William. Có thể chỉ mỗi ba chỗ kia thôi. Ta dám chắc mụ ấy sống ở mỗi nơi
một ít,” vị ẩn sĩ đáp lại. “Cũng có thể còn nhiều nơi khác nữa trên phía bắc,
xa hơn khu vực mà anh nhờ ta điều tra. Ta nhận được phản ứng mạnh nhất là
từ bờ hồ Coniston, nhưng ta cũng cảm nhận được mụ ta đi lang thang khắp
khu vực phía tây của hồ ấy. Anh biết rõ nơi này không?”
“Vài lần tôi có chuyện phải làm trên ấy, nhưng tôi không nắm rõ khu vực
cực bắc của hồ, ngay vùng ven của Hạt. Đám người sống trên vùng hồ
Coniston là một đám thiếu thân thiện, sống theo cách riêng và không vui vẻ
gì với người ngoài vùng. Họ thà im lặng chịu đựng hơn là mời một kẻ trừ tà
từ miền nam lên.”
Cũng còn khôn là tôi không nói ra ý nghĩ của mình, nhưng tôi nghĩ lời
này hơi quá khi được phát biểu từ một người kém thân thiện như ông
Arkwright, người mà đến chân học việc trong nhà cũng lắm khi không chịu
đựng được.
Ngay khi chúng tôi chuẩn bị lên đường thì thời tiết trở xấu, ngọn gió từ
hướng tây mang mưa đến quất mạnh vào sườn đồi, khiến mưa trút ầm ào
xuống nóc hang động rồi lọt qua lối vào, thỉnh thoảng còn liếm lèo xèo vào
mép đống lửa.
“Đúng là ông già ngớ ngẩn,” ông Arkwright mắng khan. “Làm thế quái
nào ông lại chọn một cái hang có lối vào đụng ngay hướng gió vậy?”