khi phải ở gần một kẻ trừ tà, ngay cả ở Chipenden, nơi Thầy Trừ Tà sinh
sống bao nhiêu năm rồi cũng thế. Thầy tôi thích giữ khoảng cách và tránh đi
qua khu trung tâm, còn khi tôi đi thu gom nhu yếu phẩm, không phải ai cũng
thân thiện như mấy bác bán hàng, chỉ mấy bác này mới hoan nghênh khách
hàng thân thiết như chúng tôi.
Tới bên con suối – được đánh dấu trên bản đồ là ”suối Nhà Thờ“ – chúng
tôi bắt đầu leo lên lối mòn dốc đứng hướng về phía tây, bỏ lại sau lưng đám
nhà cửa ngổn ngang cùng ống khói nghi ngút. Sừng sững bên trên chúng tôi
là đỉnh “Old Man” hùng vĩ, nhưng ngay lúc hai chân tôi chớm đau, ông
Arkwright dẫn lối rẽ ngang khỏi đường mòn và đi vào khu vườn nhỏ trước
một quán rượu. Bảng hiệu ở đây đề là:
Hai người đàn ông luống tuổi đang đứng nơi lối cửa, mỗi người cầm một
vại bia. Họ nhanh chân bước tránh sang cho chúng tôi đi vào, vẻ cảnh giác
trên mặt họ chắc không phải chỉ do hai con chó săn sói dấy lên. Họ có thể
nhận biết nghề của chúng tôi dựa vào quần áo và hai thanh trượng.
Vào đến bên trong, quán chẳng có một bóng khách, nhưng các bàn ăn đều
sạch sẽ và còn có một ngọn lửa tiếp đón bập bùng trong lò sưởi. Ông
Arkwright đi thẳng đến quầy rượu mà gõ ầm ĩ lên quầy gỗ. Chúng tôi nghe
thấy ai đó chạy lên mấy bậc cấp rồi một người đàn ông ục ịch, vẻ mặt hớn
hở, vận chiếc tạp dề sạch từ lối cửa bên tay phải chúng tôi chạy vào.
Tôi thấy ông ta thận trọng liếc qua hai con chó rồi loáng đảo mắt nhìn ông
Arkwright từ đầu đến chân, nhưng rồi nụ cười thoạt đầu gượng gạo chợt
biến thành kiểu cười chào đón chuyên nghiệp của một ông chủ quán đầy
kinh nghiệm. “Xin chúc quý ngài một ngày tốt lành. Tôi có thể phục vụ gì
đây ạ? Chỗ ở, một bữa ăn hay đơn giản chỉ là hai cốc bia thượng hạng của
chúng tôi?”
“Này ông chủ, bọn tôi sẽ lấy hai phòng cùng một bữa tối – món thịt hầm
khoai tây nóng sốt ấy, nếu ông có. Trong khi chờ đợi, chúng tôi sẽ ngồi ngay