choạng va vào bàn người khác, làm đổ thức uống của người ta và bị họ tức
tối nhìn lại. Tôi ngồi yên, cố không gây sự chú ý, nhưng dường như ông
Arkwright lại không có ý như thế. Tại quầy rượu, ông bắt đầu kể lể chuyện
mình đã đánh thắng Kẹ Xé Xác Coniston như thế nào cho bất cứ ai đang
lắng nghe.
Chập sau, ông lảo đảo quay lại bàn, mang theo cốc bia thứ tám. Ông nốc
loáng cái là hết, rồi ợ lên rõ to, lôi kéo thêm nhiều cái liếc háy.
“Ông Arkwright này,” tôi bảo, “ông có nghĩ bây giờ chúng ta nên đi nằm
không? Ngày mai chúng ta sẽ có một ngày bận rộn mà bây giờ thì đã khuya
rồi.”
“Lại nữa,” ông Arkwright oang oang nói lớn để nhanh chóng thu hút
lượng người nghe mà ông muốn. “Khi nào thì cậu học việc của tôi mới học
được rằng tôi là người ra lệnh chứ không phải ngược lại ấy nhỉ. Tôi sẽ đi
nằm khi nào tôi muốn nhé cậu Ward, không sớm hơn đấy đâu,” ông càu
nhàu.
Bị bẽ mặt, tôi tẽn tò. Tôi có thể nói thêm gì đây? Tôi nghĩ người thầy mới
của mình đang phạm một sai lầm nghiêm trọng khi quá chén như thế trong
khi sáng mai chúng tôi phải đối đầu với mụ Morwena, nhưng như ông ấy đã
bảo, tôi chỉ là đứa học việc và phải phục tùng mệnh lệnh.
“Rủi thay là thằng bé nói đúng đấy,” ông chủ quán đi đến dọn bàn và nói.
“Tôi không thích đuổi những người khách trả tiền cho tôi, nhưng anh đã
uống quá nhiều rồi Bill à, mà anh thì cần tỉnh táo nếu đúng là anh phải đi
lùng bắt mụ Morwena ấy.”
Tôi choáng quá. Tôi không nhận ra là người thầy mới của mình đã kể cho
chủ quán biết những gì chúng tôi hoạch định – ban nãy, khi đứng bên quầy
rượu, ông ấy có kể cho ai khác nghe không đây?
Arkwright đấm mạnh tay xuống bàn. “Anh đang bảo là tôi không thể
uống từng ấy bia à?” Ông gào lên.
Thốt nhiên căn phòng im bặt và mọi người quay sang nhìn chúng tôi.