Những đám mây đã tan đi, không khí vừa khô vừa sắc lạnh. Hai con chó
theo sát gót chúng tôi, mắt long lanh vì phấn khích. Chúng tôi chậm rãi leo
lên mấy sườn núi phía nam của ngọn Old Man cho đến khi tuyết kêu lạo xạo
dưới chân. Tuyết chưa dày lắm và bề mặt chỉ mới bắt đầu đóng băng.
Đến bên bờ hồ Con Dê, ông Arkwright dừng lại. Cái hồ be bé này được
đặt tên rất chuẩn: một con sơn dương sẽ thấy thoải mái trên những bờ hồ dốc
đứng cùng những vách đá lởm chởm chìa ra như thế này hơn là con người.
Bờ bên này lác đác những tảng đá lớn, khiến cho lối vào thật khó khăn.
Nhưng ông Arkwright không dừng chân để ngắm cảnh. Tôi bất ngờ khi thấy
ông thình lình gập người và bắt đầu nôn ói dữ dội, phun ra nào bia nào thịt
hầm xuống đất. Tôi quay lưng lại, đứng cách xa ra, dạ dày nhộn nhạo. Ông
Arkwright nôn ọe một lúc rồi ngừng lại, tôi nghe thấy ông hít vào thật lắm
khí trời đêm.
“Cậu thấy khỏe không, cậu Ward?” Ông Arkwright lảo đảo đi đến chỗ tôi.
Tôi gật đầu. Ông vẫn còn đang thở khò khè nặng nhọc và trên chân mày
vương một lớp mồ hôi.
“Cái món thịt hầm khoai tây hẳn đã ôi rồi. Sáng mai tôi sẽ chửi cho tay
chủ quán một trận ra trò, đảm bảo đấy!”
Ông Arkwright hít thêm một hơi sâu rồi dùng mu bàn tay chùi trán chùi
mồm. “Tôi thấy không được khỏe cho lắm. Tôi nghĩ mình cần phải nghỉ một
chốc,” ông bảo.
Chúng tôi tìm đến một tảng đá gần đấy cho ông tựa lưng vào và cả hai
ngồi nghỉ, trong không gian yên ắng chỉ vang lên tiếng rên thi thoảng của
Arkwright và tiếng hai con chó ư ử lạc lõng.
Sau mười phút, tôi hỏi xem ông có khỏe hơn không. Ông gật đầu và thử
đứng dậy, nhưng hình như hai chân ông nhũn ra nên ông lại nặng nhọc ngồi
xuống.
“Cháu có nên đi tiếp một mình không ông Arkwright?” Tôi đề nghị.
“Cháu nghĩ ông không đủ khỏe để rà soát quanh đây, chứ đừng nói là đi đến
tận hồ Coniston.”