biết rõ là món thịt hầm khoai tây chẳng bị gì đâu. Chỉ là bia quá mạnh mà
ông ấy lại uống quá nhanh thôi.
Thế là, với con Vuốt bên cạnh, tôi tiến về hồ Coniston. Trên rừng cây, mặt
trăng đang chầm chậm hiện ra.
Trong lúc tôi bước xuống đồi, trở lại con đường cũ hướng về ngôi làng,
một tiếng kêu rờn rợn từ ngay bên trên vọng đến. Tôi chờ đợi, căng thẳng và
cảnh giác, cảm nhận mối nguy hiểm. Âm thanh này quen lắm. Có thể là một
kiểu tiếng kêu hay dấu hiệu cảnh báo nào đấy. Rồi âm thanh lạ lùng ấy lại
vang lên, gần như là ngay trên đỉnh đầu, thế là thốt nhiên tôi nhớ ra mình
từng nghe thấy nó ở đâu – trên đầm lầy, chỉ vài phút trước khi tôi chạm trán
Morwena và mụ ta lôi tôi xuống sình. Ngay lập tức, tôi nhác thấy thứ gì đó
bay về phía hồ Con Dê.
Chẳng nghi ngờ gì nữa, đấy là một loài chim và tôi quyết phải hỏi ông
Arkwright ngay khi có dịp mới được. Một số phù thủy sử dụng cốt thuật hay
huyết thuật, một số khác lại dùng thuật hiệp thần – những sinh vật biến
thành tai mắt của bọn phù thủy và làm theo lệnh chúng. Biết đâu con chim lạ
kia là vật hiệp thần của mụ Morwena chăng?
Rốt cuộc tôi cũng đến được làng và nhanh chân băng qua những con phố
vắng tanh, con Vuốt lon ton theo sát. Chỉ có vài tia sáng le lói từ những cửa
sổ tầng trên. Khi qua hết căn nhà cuối cùng, tôi đi bọc ven bờ phía bắc hồ
nước, rồi ngồi xuống giữa những tán cây mà từ đấy nhìn ra có tầm quan sát
rành rọt cả bờ hồ, mặt hồ phía trước lấp lánh ánh trăng bàng bạc.
Thời gian chậm chạp trôi đi, và mặc cho tôi cùng con Vuốt lùng sục khắp
chốn, tôi chẳng nhìn thấy và cũng chẳng nghe ra thứ gì đáng chú ý. Tôi bắt
đầu nghĩ về Alice, băn khoăn không biết cô đang làm gì hay có đang nhớ tôi
nhiều như tôi nhớ cô. Tôi cũng nghĩ về thầy John Gregory của mình nữa. Có
phải thầy đang an toàn êm ấm trên giường mình tại Chipenden, hay là giống
như tôi, đang phơi mình trong bóng tối để làm việc của kẻ trừ tà?
Cuối cùng, tôi quyết định quay trở lại hồ Con Dê cùng ông Arkwright –
nơi này chẳng thấy dấu tích gì của mụ Morwena cả.