không quay lại, xin bà cứ về nhà và quay lại đây đón chúng tôi ngay trước
lúc bình minh.”
Bà Deana gật đầu, cầm một trong hai ngọn đèn đưa cho Thầy Trừ Tà. Vì
hai tay tôi đã bận mang trượng cùng túi đồ của Thầy Trừ Tà, nên bà đưa
ngọn đèn còn lại cho Alice. Con Vuốt tức thì phóng tới trước và nhanh
chóng mất dạng vào bóng đêm. Để bà Deana lại thuyền, chúng tôi đi theo
con chó vào rừng cây tối mịt. Từ bờ này sang bờ kia hòn đảo chưa tới ba
trăm thước bề ngang và dài ba phần tư dặm: dưới ánh sáng ban ngày thì
chúng tôi đã có thể lùng sục khắp từ đầu này sang đầu kia. Tuy nhiên, trong
bóng tối thì hoàn toàn không có khả năng, thế nên chúng tôi đi thẳng đến
công trình phí của, nơi mà vị ẩn sĩ nghĩ chúng tôi sẽ tìm thấy ông Bill
Arkwright.
Hòn đảo này rậm rạp cây cối; chủ yếu là cây thông cây tùng, nhưng
không lâu sau, chúng tôi đến một quãng rừng toàn cây thay lá, những cành
cây khẳng khiu trơ trụi, và rồi, giữa đám cây ấy, là công trình phí của.
Trông nó chẳng giống như tôi từng tưởng tượng ra chút nào. Dưới ánh
trăng, tôi nhìn ra hai tòa nhà biệt lập thay vì chỉ một, có lẽ cách nhau không
quá mười lăm sải chân; hai ngọn tháp đôi vuông vức, bè bè xấu xí xây từ đá
xám bám đầy địa y, mỗi ngọn tháp cao không quá sáu mét. Chúng gợi cho
tôi nhớ đến các thạch mộ – những lăng tẩm cất giữ xương cốt của người
chết. Mỗi tòa tháp có mái bằng nhưng không có lỗ châu mai nào, chỉ có vài
họa tiết trang trí. Trong khi đấy, mấy bức tường thấp hơn xây từ những
phiến đá nhẵn, từ cách mặt đất khoảng bốn mét cho đến mái mỗi ngọn tháp
chi chít tượng đầu thú: đầu lâu, dơi, chim và đủ loại sinh vật, có lẽ là được
sao chép từ vài trang sách ngụ ngôn các loài quỷ dữ nào đấy.
Công trình thứ nhất không có cửa mà chỉ có một khe hở vừa cao lại vừa
hẹp trên mỗi bức tường làm cửa sổ. Vậy thì làm sao đi vào đây? Mà nếu
không vào bên trong được, thì mục đích của tòa nhà này là gì? Thậm chí nó
còn không đẹp đẽ mấy để mà nhìn ngắm cả. Ông Arkwright khó có thể đang
ở bên trong tòa tháp bị phong kín ấy, vậy mà con Vuốt đã chạy vòng quanh