Sau bữa điểm tâm, Thầy Trừ Tà dẫn tôi sang căn phòng nhỏ nơi thầy cất
ủng, áo choàng và trượng. “Đã đến lúc thay thế thanh trượng bị đốt của con
rồi đấy anh bạn,” thầy nói với tôi. “Đây, thử cái này xem có vừa tay không
nào.”
Thầy đưa tôi một thanh trượng làm từ gỗ thanh hương trà, loại gỗ chống
lại phù thủy vô cùng hữu hiệu. Tôi nâng thanh trượng lên kiểm tra độ cân
đối. Hoàn hảo. Rồi tôi để ý thấy thứ gì đấy khác. Gần chuôi trượng có chỗ
lõm – kích cỡ đủ để tôi thọc ngón tay trỏ vào.
“Ta nghĩ con biết chỗ này để làm gì rồi nhỉ!” Thầy Trừ Tà reo lên. “Tốt
nhất con nên thử nó đi. Xem xem nó còn hoạt động tốt không.”
Tôi cho ngón tay vào chỗ lõm mà bấm. Có tiếng cách thật lớn, rồi một
lưỡi dao bén ngót từ đầu kia thanh trượng bật ra. Thanh trượng trước đây
của tôi không có lưỡi dao bấm – mặc dù tôi từng có lần mượn trượng của
Thầy Trừ Tà. Nhưng giờ đây tôi đã có một thanh cho riêng mình.
“Cảm ơn thầy,” tôi mỉm cười thưa với thầy tôi. “Con sẽ giữ gìn trượng
này thật cẩn thận ạ!”
“Phải đấy, chăm chút cho nó hơn thanh trượng trước của con nhé! Ta hãy
hy vọng là con không cần phải dùng đến nó, anh bạn, nhưng cẩn tắc vô áy
náy thôi.”
Tôi gật đầu, đoạn chúc đầu dao nhọn xuống nền, ra sức ấn để đẩy lùi mũi
dao vào lại trong hốc.
Trong vòng một giờ, Thầy Trừ Tà đã khóa hết cửa nẻo và chúng tôi lên
đường. Thầy tôi cùng tôi mỗi người mang theo trượng, nhưng như thường
lệ, tôi đang vác cả hai túi xách. Tất cả chúng tôi đều ăn mặc ấm áp chống cái
lạnh – thầy và tôi khoác áo choàng, Alice mặc áo khoác mùa đông bằng len
đen, mũ trùm trên áo giữ cho hai tai cô được ấm. Tôi thậm chí còn mặc thêm
áo khoác da cừu – dù quả tình thời tiết buổi sáng hôm ấy không tệ mấy.
Không khí có khô lạnh đấy, nhưng mặt trời đang tỏa sáng và rất thích hợp để
đi bộ về phía rặng đồi đá lên hướng bắc đến Caster.