từ mặt trời làm tan đi, chúng lại kết dày hơn, khiến tầm nhìn chỉ còn giới
hạn trong mấy bước chân. Tôi có thể trông thấy phần đuôi của con ngựa gần
nhất, nhưng con đồng hành với nó lẫn ông Gilbert đều bị khuất mất. Ngay cả
tiếng vó ngựa lộc cộc nhịp nhàng cũng biến thành nghèn nghẹt. Chúng tôi
thường xuyên băng qua bên dưới một cây cầu, nhưng ngoài việc đó thì
chẳng còn gì để xem, tôi thấy chán vì chỉ ngồi ì ra đấy.
Chừng một giờ đồng hồ trước khi trời tối, ông Gilbert cho ngựa dừng lại
và đi đến nơi tôi đang ngồi. “Ta đến rồi!” ông vui vẻ reo lên, chỉ tay vào
màn sương. “Nhà của Bill Arkwright ở ngay đằng trước kia...”
Thu dọn túi đồ cùng thanh trượng, tôi lồm cồm leo lên đường kéo xe.
Trên bờ kênh là một cây cột lớn, ông Gilbert cột chú ngựa dẫn đường vào
đấy. Phần trên cây cột trông giống như dàn giáo treo cổ và có treo một cái
chuông to tướng.
“Tôi rung chuông khi mang hàng đến,” ông Gilbert hất đầu về phía cây
cột. “Năm tiếng chuông dõng dạc để báo cho Bill biết là tôi cùng các món
hàng chứ không phải ai đấy đang cần đến thầy trừ tà – trong trường hợp này,
theo thông lệ là rung ba tiếng. Bill sẽ ra tận đây để nhận lấy những gì tôi
mang đến. Nếu nhiều quá thì thỉnh thoảng tôi phụ giúp ông ấy mang đến ven
vườn. Bill không thích bất cứ ai vào gần hơn thế đâu!”
Tôi hiểu chứ. Việc này thì ông ta giống như thầy tôi thôi. Người cần đến
sự giúp đỡ rung chuông ngoài ngã tư đường và thường là tôi được sai ra tìm
hiểu họ muốn gì.
Tất cả những gì tôi trông thấy từ cây cột trở đi là một màn sương xám xịt,
nhưng tôi có thể nghe ra tiếng suối chảy òng ọc đâu đó bên dưới. Đến khu
vực này thì con kênh được nâng cao lên so với những cánh đồng bao quanh.
Từ lối kéo xe, một bờ cỏ dốc đứng xuôi xuống rồi chìm khuất trong màn
sương.
“Từ đây đến mép vườn nhà ông ấy chỉ chừng chín mươi bước chân,” ông
Gilbert bảo. “Ngay dưới chân bờ kênh là một con suối. Cứ men theo đấy mà
đi. Con suối đổ thẳng xuống bên dưới nhà và từng dùng để quay những bánh