Cánh cửa đầu tiên tôi đi đến bị đóng ván chắn lại, cả những cửa sổ cạnh
đấy cũng thế. Do đó tôi bước về phía dòng suối cho đến khi đến được hàng
hiên hẹp bao lấy một cánh cửa to lớn, vững chãi. Trông như là cửa chính nên
tôi gõ lên đấy ba lần. Có lẽ lúc này ông Arkwright đã về nhà rồi chăng? Khi
không ai ra mở cửa, tôi lại gõ lần nữa, lần này mạnh tay hơn. Sau cùng, tôi
thử vặn nắm cửa. Cửa bị khóa.
Tôi nên làm gì bây giờ? Ngồi trên bậc tam cấp trong tiết trời lạnh lẽo ẩm
ướt này chăng? Thời tiết ban ngày đã đủ tệ rồi, trong khi chẳng bao lâu nữa
trời sẽ tối. Chẳng có gì bảo đảm ông Arkwright sẽ quay về trước đấy. Việc
điều tra vụ xác chết trong nước có thể mất đến vài ngày.
Có một cách giải quyết vấn đề rắc rối của tôi. Tôi có chiếc chìa khoá đặc
biệt do ông Andrew, người anh hành nghề thợ khóa của Thầy Trừ Tà, làm
cho. Mặc dù chìa này có thể mở đa số các cửa, và tôi nghĩ cánh cửa trước
mặt mình đây cũng không khó khăn gì mấy, nhưng tôi lại do dự không muốn
dùng đến nó. Chỉ là có vẻ không phải lắm khi đi vào nhà ai đó mà không có
sự cho phép của họ, thế là tôi quyết định chờ thêm chập nữa, xem ông
Arkwright cuối cùng có xuất hiện không. Chẳng bao lâu sau, cái lạnh và hơi
ẩm bắt đầu ngấm vào xương tủy, và tôi đổi ý. Ngả nào thì tôi cũng sẽ sống
sáu tháng tại đây và ông Arkwright đang chờ tôi đến cơ mà.
Chiếc chìa khóa xoay chuyển nhẹ nhàng trong ổ nhưng cánh cửa kẽo kẹt
rên rỉ trên bản lề khi nó từ từ mở ra. Bên trong cối xay tối mù mù, không khí
ẩm ướt, mốc meo, nồng nặc mùi rượu cũ. Tôi chỉ bước một bước vào trong,
đợi cho hai mắt mình làm quen, rồi nhìn quanh. Đầu kia căn phòng có chiếc
bàn lớn, chính giữa bàn là một cây nến đặt trên chân nến nhỏ bằng đồng. Tôi
đặt trượng xuống rồi dùng túi đồ chặn cửa, để cho chút ánh sáng lọt vào
trong phòng. Lấy từ trong túi ra hộp đánh lửa, tôi nhanh chóng thắp nến lên.
Xong xuôi, tôi trông thấy một mảnh giấy đặt trên bàn, dùng chân nến đè lên.
Liếc qua một loáng, tôi biết đây là tin nhắn cho mình nên cầm lên rồi bắt
đầu đọc.
Cậu Ward thân mến,