vài bước. Chẳng mấy chốc chúng tôi qua mặt ông lão trong làng; Arkwright
thậm chí còn không gật đầu về hướng ông ta.
Tôi nghe qua là không thích công việc này chút nào, và dù có vẻ cứng rắn
là thế, Arkwright rõ ràng cũng không vui vẻ gì. Xét về một mặt, hải câu
nhân gợi cho tôi nhớ đến phù thủy nữ yêu – chúng có thể từ từ biến thành
hình dạng con người. Tôi nghĩ đến Meg, phù thủy nữ yêu mà thầy tôi từng
yêu mến. Thầy sẽ thấy thế nào nếu có ai đó truy đuổi bà ấy với chó chứ? Sẽ
chẳng khá khẩm hơn những gì người đánh cá kia cảm thấy khi chúng tôi
truy đuổi vợ anh ta. Mẹ tôi chắc hẳn cũng là một nữ yêu, giống như hai
người chị của bà, và tôi biết bố mình sẽ phản ứng ra sao nếu mẹ bị săn đuổi
như thế. Toàn bộ tình huống này làm tôi thấy tồi tệ quá. Nếu vợ người đánh
cá không làm gì có hại, tại sao bà ấy phải bị săn lùng?
Chúng tôi rời khỏi con kênh, rẽ sang hướng tây về phía bờ biển, và không
bao lâu sau, một bờ cát màu nâu nhạt, bằng phẳng trải rộng hiện ra trước
mắt. Ngày hôm ấy trời se lạnh – mặt trời không tỏa được chút hơi ấm nào,
dù là nó đang rực sáng ngoài vùng biển xa xa. Tránh xa hai con chó săn sói,
tôi tiến lên để bước cạnh ông Arkwright. Tôi đang tò mò và có nhiều câu để
hỏi.
“Hải cẩu nhân có quyền năng gì không ạ?” Tôi hỏi. “Chúng có dùng tà
thuật không?”
Arkwright lắc đầu mà không nhìn sang tôi. “Quyền năng duy nhất mà
chúng có là biến hình,” ông ủ rũ đáp. “Một khi đã khoác vào hình dáng con
người, chúng có thể biến ngược lại trong vài phút nếu bị đe dọa.”
“Vậy hải cẩu nhân có thuộc về thế lực bóng tối không?”
“Không hẳn. Xét về mặt này thì chúng giống như con người – chúng
thuộc về giới nào cũng được.”
Chập sau, chúng tôi đi qua một ngôi làng nhỏ chừng khoảng bảy ngôi
nhà, mùi cá ươn tanh tanh thoang thoảng trong không khí. Còn có vài tấm
lưới đánh cá và hai con thuyền nhỏ nhưng không thấy bóng dáng người nào.