cùng phương pháp như ở địa phương. Chúng tôi ký hợp đồng đăng
một trang quảng cáo trên Saturday Evening Post và Ladies’ Home
Journal. Sau đó, chúng tôi chèn vào một phiếu có thể dùng để đổi
lấy một bánh Palmolive 10 xu tại bất kỳ cửa hàng thuốc nào trên
cả nước. Chúng tôi gửi trước các tờ quảng cáo đó cho tất cả các dược
sĩ ở khắp nơi, đưa ra các con số về lượng lưu thông ở các địa
phương, đồng thời chỉ ra rằng phiếu này có giá trị 10 xu đối với
cả phụ nữ và dược sĩ. Kết quả là chúng tôi nhận được đơn hàng từ
khắp mọi nơi, đặt mua loại xà bông mà các đại lý chưa bao giờ nhìn
thấy. Theo tôi nhớ thì trị giá những đơn hàng đặt trước đó đã vượt
quá 100.000 đô-la.
Những người bán buôn dự trữ rất nhiều – dưới dạng ký gửi, tôi
nghĩ vậy – để các đại lý có thể nhanh chóng có hàng mới. Khi các
quảng cáo xuất hiện, nhu cầu phiếu rất lớn. Sau một vài ngày,
hàng chục ngàn phụ nữ đã sử dụng xà bông Palmolive để tìm kiếm
các ưu điểm được miêu tả trong quảng cáo. Và các cửa hàng dược
phẩm trong cả nước đều cung cấp nó. Người ta mua đi mua lại
thậm chí còn nhiều hơn ở địa phương.
Đó là những cách làm nên thành công cho xà bông Palmolive ở
khía cạnh quảng cáo. Hiện tại, doanh thu đạt đến hàng triệu đô-la
mỗi năm. Palmolive là xà bông tắm hàng đầu thế giới. Kinh phí
quảng cáo hàng năm đạt đến những con số khổng lồ. Nhà sản
xuất, công ty quảng cáo và nhà xuất bản thu được những khoản
tiền lớn từ sự phát triển của phép thử 700 đô-la đó.
Có một vài bài học tôi muốn rút ra ở đây: Bản chất con người là
giống nhau. Lời kêu gọi đã chiến thắng ở Benton Harbor cũng đã
chiến thắng trên cả nước.
Một công ty không cần bán một sản phẩm hai lần. Một công ty
hiếm khi có đủ tiền để bán cho cả đại lý và người tiêu dùng. Nếu