nghịch là một nhiệm vụ lớn. Một hệ thống quân sự độc đáo đã được
thiết lập cách bằng cách kết hợp nghĩa vụ quân sự có thời hạn bắt
buộc với một lực lượng dự bị lớn và linh hoạt có thể được huy động
bất cứ lúc nào. Thêm vào đó, Israel đã phát triển thành công một
ngành công nghiệp quốc phòng tiên tiến để bù đắp cho sự vượt trội
về số lượng của các lực lượng thù địch bên ngoài, cộng với một
chiến lược quân sự thông minh sẵn sàng đối phó với các mối đe
dọa tiềm năng trên tất cả các vùng biên giới của đất nước.
Hệ thống quân sự này trên thực tế qua các cuộc chiến đã chứng
minh sự thành công vượt trội trong việc bảo vệ đất nước chống lại
các mối đe dọa bên ngoài. Hơn nữa, nó bắt buộc phải như thế vì,
như những bài học xương máu trong lịch sử Israel, chỉ cần một thất
bại xảy ra thì có thể sẽ là dấu chấm hết của Nhà nước Israel, và
tiếp theo sẽ lại là thảm sát và xua đuổi.
Tuy nhiên, mặc dù tầm quan trọng đặc biệt của các vấn đề an
ninh quốc phòng, Israel lại không phải là một xã hội đặt quá nặng
trọng tâm vào quân sự. Israel có quá nhiều những vấn đề khác
phải quan tâm, đó là đảm bảo ổn định xã hội, việc hòa nhập của dân
nhập cư, an sinh, và phát triển đất nước.
Trong 40 năm đầu tiên của nền độc lập Israel, các lực lượng
quân đội chính quy của tất cả các nước láng giềng – trực tiếp như
Ai Cập, Syria và Jordan và gián tiếp như Ả Rập Saudi và Iraq – là
mối đe dọa chiến tranh hàng ngày. Bằng việc ký kết hiệp ước hòa
bình với Ai Cập đầu tiên vào năm 1979 và sau đó với Jordan vào năm
1994, Israel đã loại bỏ hai trong số ba lực lượng thù địch Ả Rập chính
mà Israel phải đối mặt. Sự yếu kém của Syria đã tự nhiên loại bỏ lực
lượng thứ ba còn lại và làm giảm khả năng chiến tranh quy ước trên
các vùng biên giới của Israel xuống bằng zero. Thêm vào đó, sự tan
rã của nước Liên Xô cũ vào năm 1991, Iraq lo việc đối nội sau chiến
tranh vùng Vịnh 1990-1991, các quốc gia Ả Rập thì bận tâm với Iran