và người La Mã ở Judah đã lên đến đỉnh điểm và biến thành cuộc
nổi dậy của người Do Thái chống lại La Mã. Ban đầu người Do Thái
chiếm ưu thế, nhưng chiều hướng thay đổi vào năm 68. Người La
Mã dưới sự lãnh đạo của vua La Mã Titus [39-81] đã dành lại quyền
chủ động và vào mùa hè năm 70, quân La Mã đánh bại quân khởi
nghĩa Do Thái tại Jerusalem. Hàng ngàn người Do Thái bị giết hoặc
bị bắt làm nô lệ. Đền Thờ Jerusalem bị san bằng. Cuộc khởi nghĩa
thất bại và một phần lớn người Do Thái bị lưu đày và phân tán đi
khắp các miền của Đế quốc La Mã
. Sự kiện này đánh dấu sự
kết thúc của thời kỳ Đền Thờ thứ hai [515 TCN – 70 CN].
Năm 70 CN được đánh dấu là điểm dịch chuyển rất lớn trong
lịch sử dân tộc Do Thái. Từ đây Đền Thờ Jerusalem không còn
nữa. Do Thái giáo chuyển hướng.
Dưới sự cai trị của Đế quốc La Mã [70-313] và Đế quốc
[313-636], cộng đồng Do Thái trên vùng đất này vẫn
tiếp tục duy trì và phát triển các nền tảng giáo dục, văn hóa và luật
pháp riêng của mình. Luật pháp Do Thái quan tâm đến mọi khía
cạnh của cuộc sống, đã được ghi lại trong Kinh Mishna (thế kỷ 2) và
được giải thích trong Kinh Talmud (thế kỷ 3-5). Các luật này, về sau
có một số phần được sửa đổi lại cho phù hợp với hoàn cảnh, ngày
nay vẫn được những người Do Thái giáo tuân thủ.
Sau đó, suốt từ thế kỷ 7 cho đến đầu thế kỷ 20, Canaan lần
lượt rơi vào tay người Ả Rập [636-1091], sau đó là người Seljuk [1091-
1099], quân Thập Tự Chinh [1099-1291], quân Mamluk [1291-1516],
người Thổ Nhĩ Kỳ thời Đế chế Ottoman [1517-1917], và cuối cùng
là Anh Quốc [1917-1948].