tập thể), crème de la crème (đỉnh của đỉnh), joie de vivre (niềm vui cuộc
sống) - đó là một cụm hay đúng không - embarrass de richesses (sự thiếu
thốn của nhà giàu)...”
“Cause célèbre (vụ kiện nổi tiếng).” Tôi trầm ngâm. “Crime passionel (tội
lỗi bốc đồng)...” Tôi thích cụm đó. “Chỉ có người Pháp mới có thể lãng
mạn hóa tội giết người.”
“Femme fatale (vẻ đẹp chết người),” Tom nói, “và dĩ nhiên, coup de foudre
(tình yêu sét đánh)...” Anh thêm vào với vẻ hằn học.
“Hmmm... coup de foudre.” Choáng váng và sững sờ trước tình yêu.
Cho đến lúc này, bóng tối đã ập xuống, và cho đến lúc chúng tôi lên đến
tầng trên cùng thì màn đêm đã buông xuống và chúng tôi phải làm việc
dưới ánh đèn điện.
“Giờ thì cơ bản là xong rồi.” Tom nói khi chúng tôi xử xong phòng họp
chính. Tôi cảm thấy một dòng mồ hôi chảy xuống lưng. “Này!” Đột nhiên
Tom kêu lên.
Chúng tôi chìm vào bóng tối.
Tôi nghe Tom thở dài khi anh mò mẫm ra chỗ công tắc đèn điện và bật đi
bật lại. “Hẳn là do bóng đèn rồi.” Anh lẩm bẩm. “Có một cái dự trữ ở trong
bếp. Anh sẽ đi lấy.”
“Không phải do bóng đèn đâu.” Tôi nói khi liếc qua khung cửa đang mở.
“Điện ở dưới tầng cũng mất rồi.”
“Vậy thì chắc là do cầu dao rồi.” Anh nói. “Anh sẽ phải sửa thôi. Hộp cầu
dao ở ngoài khu vực lễ tân.”