bay mất, và anh chỉ tình cờ chụp được trang đặc biệt của nó mà tình cờ viết
về em. Nhưng theo một khía cạnh khác, em có thể nói đó là một dấu hiệu...”
“Đó là một dấu hiệu.” Tôi lặng lẽ nói. “Anh không cần phải thuyết phục
em. Nhưng anh quay lại với điều gì trong đầu anh thế, Nick?”
“Để... nói chuyện với em... để giải thích. Trước đây anh đã không thể làm
điều đó, nhưng giờ, mọi chuyện đã khác đối với anh và anh có thể cố gắng
giải thích chuyện gì đã xảy ra... tại sao anh lại làm những chuyện mà anh đã
làm.”
“Chà, chắc chắn là em xứng đáng với một lời giải thích.” Tôi nói với vẻ cay
đắng. “Và em phải nói rằng, thật hay ho khi biết được điều gì đã ngăn cản
anh vào cái ngày cách đây ba năm rưỡi. Ồ, và cảm ơn vì lúc đó đã gọi đến
Đường Dây Quốc Gia Hỗ Trợ Người Mất Tích để em có thể thôi lê bước
vòng quanh Khu đê biển nhòm ngó bên dưới những cái thùng các tông, hay
có những cơn ác mộng trong đó anh nằm chết trên một cái rãnh - hay một
con mương, thực tế cho thấy - anh đã thật chu đáo. Mặc dù vậy đáng tiếc là
anh đã không làm điều đó sau ba ngày thay vì ba tháng. Em đoán là anh đã
nghe thấy em trên đài?” Tôi thêm vào.
“Đúng vậy. Anh có một cái đài bán dẫn nhỏ và anh đã bắt sóng đài Radio 4
trên kênh sóng dài. Vì thế anh đã gọi Đường dây hỗ trợ.”
“Nhưng rồi khi họ bảo với em rằng anh không muốn gặp em hay thậm chí
là nói chuyện với em... em không thể hiểu nổi. Nếu như anh đã có thể gọi
cho họ, vậy sao anh lại không thể gọi cho em?”
“Thực ra anh đã cố gắng. Hai lần.” Tôi nhớ lại những cuộc gọi im lặng.
“Nhưng anh đã gác máy, bởi vì anh biết nếu như anh nói chuyện với em,
thậm chí chỉ vài giây, một cuộc đối thoại sẽ bắt đầu. Điều đó sẽ dẫn đến một
điều không thể tránh khỏi là anh sẽ phải quay lại. Nhưng anh chưa sẵn sàng
để làm điều đó. Anh muốn quay trở lại vào thời điểm của riêng mình...”