vào tường, trong một ngôi nhà trống…”
“Đời là thế, bạn ạ. Nhưng để thanh minh tôi phải nói rằng tất cả đều
trong tình trạng tuyệt hảo. Tôi giữ chúng thật sạch và bảo đảm thông gió.
Tôi không để côn trùng hay loài gặm nhấm đụng vào chúng, không để
chúng bị tác động bởi ánh sáng, nhiệt độ và hơi ẩm. Thực sự là cả ngày tôi
không làm gì khác ngoài những việc như thế.”
“Chuyện gì xảy ra với số còn lại?”
Fargas nhìn ra cửa sổ, tự hỏi mình chính câu hỏi ấy. Lão nhíu mày. “Ông
có thể hình dung thế này,” lão trả lời, và khi lão quay lại Corso trông lão
thật tội nghiệp. “Ngoài ngôi nhà và vài thứ đồ đạc, cùng với thư viện của
cha tôi, tôi chỉ thừa hưởng những món nợ. Bất cứ khi nào có chút tiền, tôi
đều mua sách. Khi những khoản tiết kiệm đã tiêu tán hết, tôi tống đi các thứ
khác – tranh, đồ gỗ, đồ sứ. Tôi nghĩ ông biết thế nào là một người sưu tầm
sách điên cuồng. Nhưng tôi bị ám ảnh đến bệnh hoạn. Tôi đau khổ vô cùng
khi nghĩ đến bộ sưu tập của mình sẽ tan nát.”
“Tôi biết những người như thế.”
“Thật sao?” Fargas hứng thú nhìn gã. “Tôi vẫn ngờ rằng ông không thể
hình dung nó thế nào. Tôi thường trở dậy giữa đêm khuya, lang thang như
kẻ mất hồn nhìn những cuốn sách. Tôi nói chuyện với chúng, vuốt ve
chúng, thề chăm sóc chúng cả đời… Nhưng tất cả chẳng ích gì. Một hôm
tôi quyết định biến hầu hết thành vật hy sinh, chỉ giữ lại những cuốn có giá
trị nhất, những cuốn yêu quý nhất. Ông hay bất kỳ ai sẽ chẳng bao giờ hiểu
được cái cảm giác khi để bầy kền kền cắn xé bộ sưu tập của mình nó ra sao
đâu.”
“Tôi có thể tưởng tượng được,” Corso nói, không hứng thú chút nào với
câu chuyện của lão.
“Có thể à? Tôi không nghĩ vậy. Cả triệu năm nữa cũng không thể. Tôi
mất hai tháng để từ giã chúng. Sáu mươi mốt ngày đau khổ và một trận ốm
gần chết. Cuối cùng họ tới mang chúng đi, tôi tưởng mình phát điên. Tôi
nhớ như thể mới ngày hôm qua, mặc dù đã mười hai năm rồi.”