có một con cừu đang cố thoát khỏi đám bụi gai, và Corso ngầm biểu quyết
tự do cho nó.
“Tôi nghĩ ông không còn lựa chọn nào khác,” gã nhìn thẳng vào mặt
Fargas nói.
“Nếu có thì tôi đã tìm ra nó.” Fargas cười cay đắng. “Nhưng con sư tử
thì đòi chia phần, lũ cá mập cũng ngửi thấy mùi. Đáng tiếc là không còn ai
như Công tước d’Artois, vua nước Pháp. Ông biết chuyện này không? Vị
Hầu tước già de Paulmy, người sở hữu sáu mươi ngàn cuốn sách, lâm vào
phá sản. Để trả nợ, ông bán bộ sưu tập của mình cho Công tước d’Artois.
Nhưng ngài Công tước ra điều kiện rằng ông già ấy phải giữ gìn chúng đến
khi chết. Bằng cách ấy Paulmy có tiền mua sách bổ sung cho bộ sưu tập,
mặc dù nó không còn là của ông ta nữa…”
Lão đút tay vào túi, bước thấp bước cao men theo những chồng sách,
xem kỹ từng cuốn, giống như ngài thống chế Montgomery đi duyệt đội ngũ
của mình ở El Alamein.
“Đôi khi tôi còn không dám đụng vào hay giở chúng ra nữa.” Lão dừng
bước cúi xuống sắp lại một cuốn sách cho thẳng hàng trên tấm thảm cũ.
“Tất thảy những việc tôi làm là phủi bụi và nhìn chúng trừng trừng hàng
giờ. Tôi biết đến từng chi tiết nhỏ bên trong mỗi cuốn. Coi cuốn này đi: De
Revolutionis celestium, Nicholas Copernicus, xuất bản lần thứ hai ở Basle,
1566. Một thứ vớ vẩn, ông không nghĩ vậy chứ? Giống như Polyglot của
người đồng hương Cisneros với ông, và cuốn Cronicarum in ở Nurmeberg.
Hãy xem cuốn folio nom lạ mắt bên kia: Praxis criminis persequendi của
Simon de Coline, 1541. Hay cuốn được đóng theo kiểu tu viện với bốn dải
băng nổi và những vấu lồi bên đó. Ông biết bên trong là gì không? The
Golden Legend của Jacobo de la Voragine, Basle, 1493, do Nicholas Kesler
in.”
Corso lật nhanh The Golden Legend. Một ấn bản đẹp tuyệt vời, lề cũng
để rất rộng. Thận trọng trả nó lại chỗ cũ, gã đứng lên, lấy khăn tay lau cái
ly. Nó có thể khiến một người trầm tĩnh nhất toát mồ hôi.