khói từ điếu thuốc của Corso xông thẳng lên bức họa rách trên trần, giống
như cột khói từ cuộc lễ hiến tế trong buổi bình minh lặng lẽ. Nhìn qua cửa
sổ ra khu vườn cỏ dại lan tràn, gã tìm kiếm một lối ra, giống như con cừu
trong bụi cây gai. Nhưng chẳng có gì ngoài những cuốn sách. Thiên thần đã
buông bàn tay cầm dao, vừa khóc vừa bỏ đi. Để lại một mình Abraham, lão
khọm già khốn khổ.
Corso hút nốt điếu thuốc rồi vứt vào trong lò sưởi. Gã lạnh và mệt. Bên
trong những bức tường trống trải này gã đã phải nghe quá nhiều. Thật đáng
mừng là không có tấm gương nào để gã nhìn thấy những biểu hiện trên mặt
mình. Gã nhìn đồng hồ mà không biết là mấy giờ. Với kho báu nằm kia,
trên những tấm thảm, Victor Fargas đã trả giá quá đắt, bằng nỗi thống khổ
triền miên của lão. Với Corso, giờ là lúc bàn chuyện công việc.
“Còn Chín cánh cửa thì sao?”
“Về cuốn đó ư?”
“Chính vì nó tôi mới đến đây. Tôi nghĩ ông đã nhận được thư tôi.”
“Thư ông? Phải, tất nhiên. Tôi nhớ rồi. Đúng vào lúc tất cả những
chuyện này… Thứ lỗi cho tôi. Chín cánh cửa. Đương nhiên.”
Lão bối rối nhìn quanh, như một người mộng du chợt tỉnh. Bỗng dưng
lão có vẻ mệt mỏi vô chừng, như vừa trải qua một thử thách kéo dài. Lão
giơ một ngón tay lên xin một phút nhớ lại, rồi khập khiễng bước tới góc
nhà. Ở đó có chừng năm chục cuốn sách trên tấm thảm Pháp phai màu.
Corso miễn cưỡng nhận ra hình vẽ mô tả trận thắng của Alexander Đại đế
trước vua Ba Tư Darius.
“Ông có biết rằng,” Fargas trỏ vào tấm thảm Gobelin mà hỏi,
“Alexander đã dùng kho tàng đoạt được từ tay địch thủ để bảo tồn sách của
Homer không?” Lão hài lòng cúi chào hình bóng xơ xác của vị danh tướng
xứ Macédonie. “Ông ta là nhà sưu tầm sách như tôi. Một người tốt.”
Corso chẳng quan tâm quái gì đến thị hiếu văn học của Alexander Đại
đế. Gã quỳ xuống đọc những tên sách in trên gáy và lề một vài cuốn sách.
Toàn bộ đều là chuyên luận về ma pháp, giả kim thuật và nghiên cứu về ma