ở hành lang xin một cuộc hẹn trong mấy ngày tới. Gã thử gọi số Varo Borja
ở Toledo, không ai trả lời.
* * *
Gã đang xem ti vi vặn nhỏ tiếng: một phim có Gregory Peck với những
con hải cẩu quấn quanh, một vụ ẩu đả trên sàn nhảy khách sạn, hai con tàu
buồn dọc đi bên nhau, sóng vỗ ầm ầm vào đuôi con tàu đang giương hết
buồm lướt về phương Bắc, hướng về nền tự do địch thực bắt đầu chỉ cách
bờ biển gần nhất mười dặm. Nơi cùi chỏ gã là một chai Bols – mức rượu
nằm dưới vạch chuẩn cho phép – đứng gác trên cái bàn bên cạnh, trông như
gã vệ binh già say rượu trước một trận đánh, giữa Chín cánh cửa và kẹp
giấy đựng bản thảo Dumas.
Corso buông ly rượu, day day đôi mắt đỏ ngầu vì thuốc lá và rượu gin.
Gã bày lên giường, với độ chính xác như một nhà khảo cổ, phần sót lại của
cuốn thứ hai cứu được từ lò sưởi trong nhà Victor Fargas. Chẳng còn được
bao nhiêu: tấm bìa cứng được lớp da bên ngoài bảo vệ ít hư hại hơn cả,
nhưng phần còn lại thì chẳng gì hơn những lề giấy cháy thành than và dăm
đoạn văn khó khăn lắm mới đọc được. Gã nhặt một mẩu giấy bị ngọn lửa
nướng giòn đã ngả vàng: si non obig.nem me. ips.s fecere,f.r q.qe die, tib.
do vitam m.m sicut t.m… Hẳn là nằm ở góc bên dưới trang sách. Sau khi
quan sát một hồi, gã tìm trang như thế ở cuốn số một. Đó là trang 89, và hai
đoạn văn giống hệt nhau. Gã tiếp tục làm vậy với tất cả các đoạn còn lại,
chỉ có thể xác định được mười sáu đoạn. Không thể tìm ra vị trí của hai
mươi hai mẩu khác; chúng quá nhỏ hoặc quá nát. Mười một mẩu khác
không có chữ, gã chỉ xác nhận được một trong số đó nhờ đoạn uốn số 7 của
chữ số thứ ba nơi chỗ đánh số trang, trang 107.
Điếu thuốc cháy hết làm môi gã nóng bỏng. Dụi đầu mẩu vào cái gạt
tàn, gã với chai gin tợp một ngụm. Gã đang mặc cái áo kaki vải bông cũ có
những cái túi to đùng, tay áo xắn cao, đeo cái cà vạt nhăn nhúm. Trên ti vi,