thuật của Golem
. Một thời gian sau ông lại chuyển đi, lần này là tới
vùng Mala Strana…” Bà mỉm cười với gã, bí ẩn. “Những chuyện này ông
thấy thế nào?”
“Giống như một chuyến hành hương. Hoặc dã ngoại, như ta nói bây
giờ.”
“Tôi cũng nghĩ vậy,” bà Nam tước đồng ý với vẻ hài lòng. Corso lúc này
đã thực sự được chấp nhận và đang mau chóng leo lên đứng đầu lớp. “Thật
sự là quá mức trùng hợp khi Arsitide Torchia tới ba địa điểm tập trung toàn
bộ những tri thức huyền bí thời đó. Lại chính là ở Praha với những đường
phố còn vang vọng tiếng bước chân Agrippa và Paracelsus
, nơi tìm thấy
bản viết tay cuối cùng về ma thuật Chaldea và những bí quyết của Pytagor
đã mất tăm mất tích sau khi Metapontius bị giết.” Bà nghiêng mình về phía
gã rồi thấp giọng như Cô Marple
sắp thổ lộ với bà bạn thân nhất rằng
mình phát hiện xyanua trong món bánh điểm tâm. “Ở trong thành Praha ấy,
ông Corso ạ, trong số những học giả hắc ám ấy, có những người luyện
carmina tức là những câu thần chú, thuật gọi hồn và thuật giao tiếp với
người chết.” Bà ngừng lại lấy hơi, trước khi thì thầm, “Và goety…”
“Thuật giao tiếp với quỷ.”
“Đúng vậy.” Bà ta ngả người lên lưng ghế tựa. Phấn khích vì tất cả
những điều này, bà đang bộc lộ chính mình. Đôi mắt sáng rực, nói nhanh
như thể có quá ít thời gian mà lại có quá nhiều điều cần nói. “Vào thời ấy,
Torchia sống ở nơi tàng trữ những sách và tranh khắc còn tồn tại được sau
bao chiến tranh, hỏa hoạn và bức hại. Những cuốn sách ma thuật còn sót lại
mở ra cánh cửa của tri thức và sức mạnh: Delomelanicon, ngôn ngữ để
triệu hồi bóng tối.”
Bà ta nói với một giọng bí ẩn, gần như diễn kịch, nhưng vẫn cười, như
thể chính mình không hoàn toàn nghiêm túc về chuyện ấy, hoặc giả muốn
nhắc nhở Corso duy trì một khoảng cách lành mạnh.
“Sau khi kết thúc thời gian học việc, Torchia trở về Venice,” bà tiếp tục.
“Hãy ghi nhớ vì đây là điều quan trọng: bất chấp những nguy cơ sẽ phải đối