cùng hỗn loạn.”
“Quả vậy, chương một,” tôi nói. “Ông đã làm rất tốt.”
“Đó là điều Rochefort nói trước khi hắn ngã xuống cầu thang.”
Một hồi im lặng, cho đến khi nó bị phá vỡ bởi tiếng chuông đồng hồ báo
còn mười lăm phút nữa đến nửa đêm. Corso trỏ vào mặt đồng hồ, “Mười
lăm phút nữa, Balkan.”
“Phải,” tôi nói. Người này trực giác quá nhạy bén. “Mười lăm phút nữa
là ngày thứ Hai đầu tiên của tháng Tư.”
Tôi đặt Kỵ sĩ áo vàng lên giá sách và tiếp tục đi đi lại lại. Corso đứng
nhìn tôi, tay cầm dao.
“Ông có thể bỏ nó đi,” tôi mạo hiểm nói.
Gã do dự một thoáng trước khi gấp lưỡi dao lại bỏ vào túi, mắt vẫn nhìn
tôi không chớp. Tôi cười tán thưởng và lại chỉ thư viện.
“Bên một cuốn sách người ta không bao giờ cô đơn, đồng ý không?” tôi
nói, bắt đầu trở nên ham chuyện. “Mỗi trang sách nhắc tới một ngày đã qua
và khiến ta sống lại những cảm xúc tràn đầy ngày hôm ấy. Những giây phút
hạnh phúc được gạch chân chì đỏ, những lúc đau khổ bằng chì đen… Ta ở
đâu khi đó? Ông hoàng nào coi ta là bạn, người hành khất nào coi ta như
anh em?” Tôi do dự, tìm một câu khác để diễn đạt trọn ý.
“Đồ chó đẻ nào coi ông là bạn thân?” Corso gợi ý.
Tôi nhìn gã trách móc. Gã khó ưa này cứ nhất định làm cho người ta
ngạt thở. “Đừng khó chịu thế.”
“Tôi sẽ làm chuyện tôi thích. Thưa Đức ông.”
“Tôi nhận ra có sự chế nhạo,” tôi nói, cảm thấy bị xúc phạm. “Từ đó tôi
suy ra rằng ông đã sẵn thành kiến, ông Corso. Chính Dumas biến Richelieu
vốn không ác ra thành ác và xuyên tạc thực tế để thủ lợi văn học. Tôi nghĩ
tôi đã giải thích điều đó lần trước ta gặp nhau tại quán cà phê ở Madrid
rồi.”
“Thủ đoạn bẩn thỉu,” Corso nói, không rõ gã ám chỉ ai, Dumas hay tôi.