“Ông có mang theo Rượu vang Anjou không?”
Gã nhìn tôi đề phòng, thử đoán tôi định làm gì. Rồi gã nhượng bộ. Một
cách miễn cưỡng, gã lôi tập bản thảo từ trong áo khoác ra, rồi lại cất đi.
“Hay lắm,” tôi nói. “Giờ thì theo tôi.”
Chắc gã nghĩ đến một lối đi bí mật trong thư viện, một thứ bẫy rập quỷ
quái nào đấy. Tôi thấy gã cho tay vào túi tìm con dao.
“Ông sẽ không cần cái ấy đâu,” tôi trấn an gã.
Gã không bị thuyết phục, nhưng không nói gì cả. Tôi giơ cao cây nến và
chúng tôi đi xuống theo hành lang kiểu Louis XIII. Một tấm thảm thêu
tuyệt đẹp treo trên tường: Ulysses tay cầm cung vừa trở về từ Ithaca,
Pénélope và con chó hoan hỉ, những kẻ theo đuổi nàng uống rượu ở hậu
cảnh, không hay biết điều gì đang chờ đợi họ.
“Đây là một lâu đài cổ, đầy ắp lịch sử,” tôi nói. “Từng bị người Anh,
người của giáo phái Calvin và người cách mạng cướp đoạt. Thậm chí trong
chiến tranh người Đức còn đặt sở chỉ huy ở đây. Khi tới tay người chủ hiện
nay - một triệu phú người Anh, một con người thú vị và thanh lịch - thì nó
đã tàn tạ lắm rồi. Ông ta cho phục chế và trang trí lại theo thị hiếu riêng
tinh tế hơn người. Thậm chí ông ta còn đồng ý mở cửa cho dân chúng tham
quan.”
“Vậy ông làm gì ở đây ngoài những giờ tham quan?”
Ngang qua một cửa sổ kính màu trang trí, tôi liếc nhìn ra. Cơn bão cuối
cùng cũng đang dịu đi, những ánh chớp lập lòe lùi quá về phía Bắc, bên kia
sông Loire.
“Một ngoại lệ chỉ xảy ra mỗi năm một lần,” tôi giải thích. “Nói gì thì
nói, Meung là một chốn đặc biệt. Một tiểu thuyết như Ba người lính ngự
lâm không thể tùy tiện bắt đầu ở bất cứ chỗ nào.”
Sàn gỗ cọt kẹt dưới chân chúng tôi. Một bộ áo giáo, đồ thật thế kỷ mười
sáu, đứng ở một góc hành lang. Ánh nến phản chiếu trên bề mặt trơn bóng
của nó. Khi đi qua đó, Corso liếc nhìn như thể ai đó nấp ở bên trong.