trang sách đầy hình vẽ và nét gạch dưới cùng với vô số dấu hiệu kỳ dị. Nếu
leo lét cháy trên một vài cuốn sách, những giọt nến to rỏ giọt xuống bìa
hoặc những trang mở ra. Một vài cây nến khi tan chảy tạo thành những ký
tự ngoằn ngoèo trên giấy. Trong đám tan hoang này Corso nhận ra những
bức tranh khác thuộc về cuốn Chín cánh cửa của Victo Fargas và bà Nam
tước Ungern. Chúng lẫn vào những tờ khác trên sàn và cũng phủ đầy những
giọt sáp và những chú giải bí ẩn.
Gã cúi xuống nhìn gần hơn những tờ còn lại, hầu như không tin được
mức độ của thảm họa. Một bức tranh trong Chín cánh cửa, bức số VI,
người đàn ông bị trẹo chân phải thay vì chân trái, đã bị cháy một nửa bởi
những tia lửa từ ngọn nến bắn ra. Hai bức số VII, một với bàn cờ trắng và
một với bàn cờ đen, nằm bên Theatrum diabolicum in từ năm 1512 bị xé
khỏi bìa. Một bức tranh khác, bức số I, lòi ra từ trong cuốn De magna
imperfectaque opera của Valerio Lorena, một cuốn sách cực hiếm mà trước
đó ít lâu Borja có cho Corso xem song chỉ cho phép gã chạm vào nó. Giờ
nó rách bươm, nằm trên sàn.
“Đừng đụng vào cái gì,” gã nghe Varo Borja nói. Borja đứng trước vòng
tròn, mải mê lật lật cuốn Chín cánh cửa của mình. Dường như lão không
xem chính những trang sách mà xem gì đó bên ngoài chúng, gì đó ở bên
trong hình vuông và vòng tròn trên sàn, thậm chí có thể xa hơn: tít trong
lòng đất sâu thẳm.
Corso nhìn như thể lần đầu tiên gặp lão. Gã chậm rãi đứng lên. Trong
khi gã đứng lên như vậy, các ngọn nến liền rung rinh xung quanh gã.
“Nếu tôi sờ vào bất cứ vật gì thì cũng chẳng có gì khác,” gã nói, vung
tay trỏ những cuốn sách và những trang giấy vương vãi trên sàn. “Sau việc
ông đã làm.”
“Anh chẳng biết gì hết, Corso. Anh tưởng anh biết, nhưng không phải.
Anh dốt và ngu nữa. Anh là cái loại cứ tưởng sự hỗn loạn là tình cờ và bỏ
qua sự tồn tại của một trật tự không lộ diện.”