động lòng hay không. Borja cũng biết thế. Borja viết một con số, ký tên rồi
xé tấm séc đẩy về phía Corso.
Corso chỉ liếc qua mà không đụng tới tấm séc, thở dài. “Tôi nghe đây,
ông đã thuyết phục được tôi.”
Lão buôn sách không hề tỏ ra đắc thắng. Chỉ khẽ lạnh lùng gật đầu đầy
tự tin, như thể vừa tiến hành một giao dịch tầm thường.
“Tôi vào nghề này thật tình cờ,” lão bắt đầu. “Một ngày nọ tôi chợt thấy
mình chẳng còn xu nào, ngoài chuyện là người thừa kế duy nhất thư viện
của một ông trẻ bên nội… Khoảng hai ngàn cuốn sách, trong đó chỉ chừng
trăm cuốn là có ít nhiều giá trị. Nhưng trong đó có cuốn Don Quijote xuất
bản lần đầu, đôi cuốn Psalter từ thế kỷ mười tám, và một trong số bốn tập
Champfleuri hiếm hoi của Geoffroy Tory… Anh nghĩ sao?”
“Ông gặp may đấy.”
“Chứ còn gì nữa,” Borja tán thành, giọng đều đều, tự tin. Lão không có
vẻ đắc ý lắm như kẻ thành đạt khi nhắc đến bản thân mình. “Hồi đó tôi
không biết nhà sưu tập sách quý là thế nào, nhưng tôi hiểu được điểm mấu
chốt: Người ta sẵn lòng trả cả núi tiền cho đồ xịn… Tôi học được nhiều
điều trước đây chưa biết, ví dụ như những ghi chú cuối sách, kỹ thuật chạm
nổi, trang trí hoa mỹ trên bìa sách… Tôi cũng phát hiện một đạo lý: Có
những cuốn sách để bán và những cuốn sách phải giữ lại. Trở thành một
nhà sưu tập sách giống như gia nhập một đạo giáo: nó là chuyện cả đời.”
“Hết sức cảm động. Giờ thì hãy cho biết tôi và cuốn Chín cánh cửa phải
làm gì để phục vụ tín ngưỡng của ông.”
“Anh muốn tôi làm gì nếu anh phát hiện bản thảo của tôi là giả. Nói thật
nhé: đó là đồ giả.”
“Sao ông biết?”
“Tôi tuyệt đối chắc chắn.”
Corso nhăn nhó trình bày về cái gọi là chắc chắn tuyệt đối trong lĩnh
vực sách hiếm. “Nó được liệt vào danh sách đồ thật cả trong Thư mục tổng
hợp của Mateu lẫn trong catalô của Terral-Coy.”