Và họ cười!…
Tôi còn ưa cái im lặng nặng nề của bến tầu và cảnh thê lương của
đường phố hơn…
(Và bọn thầy tu, vẫn bọn thầy tu!
Thật là buồn, những chiếc áo dài đen ấy. Những kẻ nấp sau
chúng cũng rất buồn! Chúng béo vàng như một cây nến một xu
của chúng, những mụ bán bùa và đồ cúng ba xu náu trong những
góc nhà thờ. Chúng béo nhợt và bệu như lũ quái vật trong hầm,
tất cả những kẻ mộ đạo, những ông bõ và những tay giữ đồ
thánh.)
Cuộc sống! Vậy thì cuộc sống ở đâu?
Ở Pari, những người nghèo khổ hàng xóm của tôi là những kẻ phẫn nộ
và có niềm an ủi ở những kỷ niệm về nền Cộng hòa, niềm vinh quang của
những vết sẹo! Trên bờ sông, có những hàng bán sách cũ, có những chiếc
áo bludơ qua lại!
Nhân dân! Vậy thì ở đâu là nhân dân?
Những người kéo tàu kia, những người vận áo thợ kia, những dân
Brơtanhơ-hạ mang áo vải lấm bùn kia, những nông dân vùng lân cận mặc
áo dạ xanh lục kia, tất cả những người đó không phải là nhân dân!
Tôi sẽ tìm thấy chăng, ở đâu đấy, ở một xó xỉnh nào, giữa những áo
rơđanhgôt, nếu không là giữa những áo vét hoặc bludơ, một người nào tôi
khả dĩ thổ lộ được nỗi khổ ải của tôi, họ có thể hiểu được điều tôi đau lòng,
họ mang trong lòng một chút niềm tin cộng hòa của tôi, nỗi lo âu của kẻ
thất bại!
Giá như ông Ăngđrêz, giám đốc Sở vận tải, hãy còn ở đây! Nhưng ông
ta lại đi mất rồi.
Xưa kia ông ta chẳng có một người bạn thân tới ở Năngtơ hay sao?
Tôi hay tin là ông này vẫn còn ở đây.