không tới ăn trưa ở đây.
Bà Pê-tray ngồi ở quầy thu tiền: bà có bộ tóc hung, nước da nhợt nhạt,
trông bà giống một chiếc bánh mì hãy còn bột ở trên cùi bánh.
Tôi chưa bao giờ dự tiệc vui như vậy, trong một buồng ăn sáng sủa
đến thế.
Trên chiếc bàn kê giữa cắm một bó hoa át cả mùi nước xốt. Thật là
thơm, rất thơm!
Tôi ngỡ như mình đang ở Năngtơ, vào những ngày yên ổn, mẹ tôi mở
một bữa tiệc lớn để trả nợ luôn một thể tất cả những đám mời ăn trong suốt
ba năm.
Bữa tiệc đó hầu như bao giờ cũng mở vào dịp nghỉ lễ Phục sinh, khi
mùa xuân trở lại, hoa tử-đinh-hương nở, và tôi được sai đi kiếm hoa ở
ngoài đồng.
Người ta đem hoa đó trang điểm căn phòng lớn khiến nó tưới sáng hẳn
lên và ngát hương thơm đồng nội.
Gặp ngày nắng như hôm nay, hiệu ăn nhỏ mà tôi vừa vào, với chiếc
khăn bàn trắng và bó hoa kia, có cái vẻ tươi vui thật thà, mà nhà Vanhtrax
cứ ba bốn năm mới đặc biệt có một lần!
Niềm vui thú trong gia đình, thì nó đấy! Tôi không cần gia đình của
tôi để được hưởng; bà Pê-tray không cần đẻ ra tôi mà vẫn dọn cho tôi ăn
một bữa ngon lành; ông Pê-tray trông dễ thương hơn thầy tôi: ông cũng đội
mũ vải và vận chế phục, nhưng bộ quần áo nhà bếp của ông trông đẹp hơn
nhiều bộ quần áo giáo sư.
“Bồi, tính tiền!
- Hai mươi bốn xu!”
Tôi đã được ăn một dĩa xúp Juyliên, một món sườn kiểu Xubidơ, rau
actisô sào nấm, một cốc kem, chén cà-phê.
Những kẻ quyền thế ăn chẳng ngon hơn thế, chứ sao!