trước người đàn ông mặc giả đàn bà, tôi đã cảm thấy kinh hoảng!
Anh ta cũng đỗ tú tài như tôi… và anh đi ăn mày; và anh không còn
sống nổi một tuần lễ nữa… có thể anh sắp thốt ra tiếng kêu cuối cùng rồi tắt
thở!
Trong cái yên tĩnh bao la của ban đêm, giữa đường phố vắng vẻ, thật
là buồn!
Tôi đã bỏ đi; bỏ đi không ngoảnh đầu lại…
Vì anh là người ngang hàng với tôi về học thức và y phục! Vì anh
cũng hiểu biết như tôi – có khi hơn tôi nữa!
Anh ta bước đi, bụng rỗng, mắt ngơ ngác… Anh bước đi và cái chết
chưa ban ơn cho anh, nó chưa vặn cổ anh!…
Tim anh vẫn đập, óc mệt mỏi của anh vẫn suy nghĩ – và tim ấy, óc ấy
không tìm được cách gì giúp anh khỏi chết như con chó – không; không
tìm được cách gì hơn là hành khất, hành khất đẫm lệ!
Đáng lẽ tôi phải nói chuyện với anh, đưa tay cho anh vịn, đỡ anh đứng
trên vỉa hè! Tôi đã sợ bị lây bệnh sốt của anh, bệnh của người lao phổi và
những kẻ ăn mày…
Buổi tối, tôi kể chuyện lại cho các bạn nghe.
Họ không rùng mình như tôi đã rùng mình, họ lại còn bông lơn tính đa
cảm và nỗi khiếp sợ của tôi.
Một anh trong đám cử toạ, sống với nghìn phơrăng thực lợi và được
mệnh danh là Nhà hùng biện, vì một đôi khi anh có những cử chỉ và những
cơn hùng hồn, đã chua chát mỉm cười:
“Các cậu sẽ nói gì về một người thuỷ thủ suốt đời chỉ phản nàn cho
những kẻ bị đắm tàu và có vẻ van xin đại dương đừng gây ra cảnh hấp hối
của biết bao nạn nhân!”
“Buồng của anh vẫn để không đấy”, ở khách sạn cũ người ta trả lời tôi
khi tôi trở về vào buổi sáng.