tính hợp lý, hợp pháp của các chứng từ, hoá đơn sổ sách kế toán, các
hợp đồng kinh tế và các văn bản hành chính cần kiểm soát...”.
Nhưng làm thế nào để kiểm soát viên không để sót, tức là phải
phát hiện được tất cả các sai phạm trong công ty? Làm thế nào để
kiểm soát viên phải “đánh giá được tính hợp lý, hợp pháp của các
chứng từ, hoá đơn, sổ sách kế toán, các hợp đồng kinh tế và các
văn bản hành chính của công ty”? Đó là những vấn đề không thể
một cá nhân hay cả ba kiểm soát viên có thể làm được. Bởi với một
doanh nghiệp quy mô lớn, doanh thu hàng năm tới hàng trăm tỉ
đồng thì phát hiện những sai phạm như quy định trên phải là Thanh
tra Nhà nước hoặc cơ quan điều tra với trình độ chuyên sâu, điều
kiện làm việc đầy đủ và trong thời gian dài.
Khoản 3 Điều 71 Luật Doanh nghiệp quy định: “3. Kiểm soát viên
có quyền xem xét bất kỳ hồ sơ, tài liệu nào của công ty tại trụ sở
chính hoặc chi nhánh, văn phòng đại diện của công ty. Thành viên hội
đồng thành viên, chủ tịch công ty, giám đốc hoặc tổng giám đốc và
người quản lý khác có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông
tin về thực hiện quyền chủ sở hữu, về quản lý, điều hành và hoạt
động kinh doanh của công ty theo yêu cầu của kiểm soát viên”. Quy
định này tưởng chừng sẽ tạo cho kiểm soát viên một quyền hạn rất
lớn về việc tiếp cận thông tin nhưng trên thực tế nó lại bị hạn chế
khá nhiều do cụm từ “theo yêu cầu của kiểm soát viên”. Điều lệ
của khá nhiều công ty đã sửa cụm từ trên lại là “nếu có yêu cầu”,
nghĩa là người quản lý, điều hành doanh nghiệp không có nghĩa vụ
đương nhiên phải cung cấp các thông tin về quản lý, điều hành,
sản xuất, kinh doanh, đầu tư của doanh nghiệp cho kiểm soát viên
mà chỉ cung cấp “nếu kiểm soát viên có yêu cầu”. Trong khi đó,
hoạt động kinh doanh, đầu tư của doanh nghiệp diễn ra thường
xuyên, liên tục và trên nhiều địa bàn, làm thế nào kiểm soát viên có
thể biết hết để yêu cầu?