đấy.”
Sancia lập tức trấn tĩnh và ngưng ngay những giọt nước mắt.
“Lúc đó anh hãy còn bé lắm và em rất cô đơn. Juan làm em khuây khỏa;
thế thôi, chẳng có gì hơn.”
Jofre vẫn tỉnh khô. “Anh tin là em yêu hắn vì trong đám ma hắn em khóc
lóc thảm thiết hơn ai hết.”
Sancia nói, “Đừng có khờ thế, Jofre. Em khóc vì em kinh sợ cho bản
thân mình. Em không bao giờ tin anh của anh chết bởi tay người lạ.”
Jofre có vẻ cảnh giác. Đôi mắt ánh lên nét “thông minh lạnh” và trông
chàng ta bỗng nhiên cao hẳn lên, đôi vai rộng hẳn ra, tư thế mạnh mẽ hiên
ngang hơn trước nay rất nhiều. “Có phải ý cô là cô biết ai giết ông anh yêu
quý của ta?” Chàng hỏi.
Vào thời khắc ấy, Sancia nhận thấy rằng có điều gì đó đã thay đổi nơi
chồng mình. Giờ đây chàng hiên ngang đứng lên như một con người hoàn
toàn khác với cậu thiếu niên mà nàng biết từ trước đến nay. Nàng tiến về
phía chàng, vươn người ra, choàng cả hai cánh tay quanh cổ chàng. “Đừng
để cha đẩy anh ra xa em,” nàng biện luận. “Hãy nói với cha là em cần phải
luôn bên anh.”
Jofre lùa tay vào tóc nàng, hôn lên mũi. “Em có thể thưa trình với cha,”
Jofre nói, nhận ra rằng xét cho cùng, cậu ta vẫn còn giận về chuyện giữa
nàng và Juan. “Cứ nói những gì em thấy cần thiết, để xem em có làm được
khá hơn những người từng cố cãi lệnh Đức Thánh Cha hay không.”
Thế là Sancia xăm xăm đi đến dãy phòng riêng của Giáo hoàng và xin
yết kiến ông.
Alexander đang ngồi trên ngai khi nàng bước vào; ông vừa kết thúc cuộc
tranh luận với viên đại sứ từ Venice, kẻ khiến ông khó chịu đến giờ.
Sancia đứng trước mặt ông, sau khi hơi nghiêng mình cúi đầu, không
thèm hôn nhẫn hay hôn chân để tỏ lòng cung kính. Nhưng nghĩ đến những
gì mình sắp ra tay với nàng ta, ông bỏ qua những chuyện nhỏ nhặt này.