tung bay trong gió. Nhưng khi ông nhìn lên thì lá cờ kia đổ xuống, cả ngàn
con ngựa phóng lên giày xéo, lá cờ chỉ còn là mảnh vải rách nát, tả tơi dưới
bùn. Khi ông ngẩng đầu lên và nhìn chung quanh, hình ảnh đó biến mất tức
thì, không để lại dấu vết nào. Và ông hiểu ra ngay: con bò tót Borgia đã bị
giết.
Thế rồi ông đứng lên, quá run rẩy vì những gì vừa nhìn thấy nên phải
dựa vào cái bàn. Khi đôi chân không còn run rẩy, ông lại cầm cây bút lông
ngỗng lên. Ông viết thêm nhiều bức thư khác. Vừa đóng dấu vừa cầu
nguyện cho mỗi bức thư. Một bức được gửi tới vua xứ Naples, bức khác
đến Fortunato Orsini, người hiện nay là tộc trưởng nhà Orsini từ khi hồng y
Antonio qua đời. Một bức gửi cho hồng y Coroneto ở Rome, một bức khác
đến hồng y Malavoglia ở Venice, lại thêm một bức nữa gửi đến Caterina
Sforza ở Florence và bức cuối cho hoàng hậu Isabella ở Tây Ban Nha.
Giờ đây ông phải bắt đầu đặt dấu chấm hết cho những chuyện này…
* * *
Cả mấy tuần liền, Jofre đều đi xuống cầu thang xoắn ốc ở Castel Sanh
Angelo để đến khu nhà giam. Chàng lướt qua bọn lính canh đang say ngủ,
càng ngày chúng càng ít để ý đến chàng, và tiến đến phòng giam bẩn thỉu,
nhỏ xíu trong góc.
Ở đó trên một chiếc giường thô ráp phủ rơm rạ, Sancia ngồi lặng lẽ như
pho tượng, tóc tai bết lại, rối bù. Jofre giàn giụa nước mắt nhìn vợ, nhưng
nàng dường như không thấy chồng mình.
Lính gác mở cửa, Jofre bước vào trong. Jofre ngồi xuống cạnh vợ, với
lấy tay nàng, nàng không đẩy ra xa, nhưng bàn tay nàng cứng đờ và lạnh
ngắt.
“Sancia, Sancia,” chàng van nài. “Xin em đừng làm như thế này. Đừng
lìa xa anh mà không chiến đấu. Anh đã gửi một bức thư cho chú em, và anh