cửa khách sạn; không hề có bóng dáng của tên áo vàng đâu cả. Chúng
tôi vội vàng đi dọc công viên, qua khu thương mại rồi tới Calle Obispo và
đi thẳng con đường nhỏ hẹp hướng ra biển.
Thành phố cũ kỹ lơ lửng trên một quả bóng nóng nực, tĩnh mịch. Tôi
nói với nó khi hai cha con bước qua quán bar El Floridita tói tăm: “Đây là
nơi Ernest Hemingway đã từng ngồi uống. Bây giờ thì nơi này là cái bẫy du
lịch, giá một cốc bia những 10 đô-la, nhưng vào những năm 1950, đây
được xem là một trong những quán bar được nhất trong thành phố này.”
Chúng tôi đi qua một vài hàng cà phê đã khóa cửa, những chỗ mà mới
cách đây vài giờ vẫn còn ồn ào tiếng nói chuyện, tiếng ghi ta và khói xì gà.
Sau đó là một cửa hàng thuốc cũ kĩ, gỗ đen, những chiếc bình gốm xếp
thành hàng chồng lên nhau dọc theo bức tường phía sau.
Sau đó chúng tôi đứng trước khách sạn cũ của Hemingway, khách sạn
Ambos Mundos, ở cuối phố. “Ông ấy đã viết một vài tác phẩm dở nhất của
mình trên tầng năm đấy,” tôi nói.
“Truyện của ông ấy có đáng đọc không bố?”, Jesse hỏi.
“Con nghĩ cái quái gì lúc nãy thế, Jesse?” tôi hỏi. “Tự nhiên lại đi với
một lũ du côn như thế hả?”
Nó không trả lời. Tôi có thể thấy nó đang luống cuống đối phó với câu
hỏi của tôi.
“Nói cho bố nghe xem nào,” tôi nói nhẹ nhàng.
“Con nghĩ con đang có một cuộc phiêu lưu. Hút thuốc và uống rượu
mạnh ở một thành phố nước ngoài. Bố hiểu không?”
“Con không cảm thấy có điều gì đó kỳ lạ à, lũ đó thân thiện đến mức
vào ba giờ sáng sao?”