kính râm, đội mũ đầu bếp ngồi uống rượu và hút thuốc ở ban công bên
cạnh. Họ nghĩ đó là “hàng xóm”, chỉ cách có ba mét. Một vài chiếc xe đỗ
lại, dừng để xem xét ngôi nhà, sững sờ sau làn kính cửa xe, và rồi rời đi chỗ
khác.
Sau khoảng một giờ hoặc hơn, gã nhân viên bất động sản láu cá xuất
hiện và hỏi đám thanh niên xem chủ nhà có nhà hay không. Tôi đang co
rúm lại trong phòng khách, cố gắng xem tivi, ruột gan run bắn lên như thể
trong người tôi có cả một chiếc còi báo động đang kêu inh ỏi. (Lương tâm
dằn vặt vì mặc cảm tội lỗi.)
Tôi thì thào với Jesse: “Không, không, nói bố không có nhà nhé.”
Vào lúc bốn giờ chiều, buổi xem nhà kết thúc. 20 phút sau, khi tôi
đang đi xuống cầu thang phía trước nhà như một tên ăn trộm để đi uống
rượu ở một nhà hàng Hy Lạp trong thành phố, tôi giật bắn người: gã nhân
viên xuất hiện. Anh ta có khuôn mặt xương xương, lộ vẻ khó chịu như đang
bị ai đó chỉ trích. Thưa “quý ông trước hiên nhà”, anh ta nói với điệu bộ
“thật có vấn đề”. Tôi cố gắng thay đổi chủ đề; bằng giọng vui vẻ, tôi hỏi
anh ta về công việc kinh doanh bất động sản, về hàng xóm; có lẽ tôi muốn
lợi dụng anh ta - tôi đang chuẩn bị mua một ngôi nhà. Ha ha ha, nụ cười kín
đáo của tôi. Anh ta không lảng tránh lời yêu cầu. Không hề mỉm cười, anh
ta nói rằng mình đang gặp rắc rối với những lời hứa hẹn của hàng loạt
những người mua nhà kiểu như thế
này. Không bao giờ! Tôi nói như thể đang bảo vệ nữ hoàng của mình.
Ngày hôm sau cũng có một buổi xem nhà, vào Chủ nhật. Trời đang
mưa rào, bầu trời mang màu xám nhạt, những con mòng biển bay thấp qua
công viên, một vài con đi bộ đầu ngửa lại phía sau, mỏ mở rộng như thể
đang súc miệng vậy. Bất chấp nỗi lo sợ rất lớn, tôi tiếp tục chiến thuật của
mình. Nhiều bia hơn, nhiều thuốc lá hơn, nhiều tên rỗi việc ngồi nhìn trời
hơn. Tôi không đủ can đảm để ngồi quanh đó và chuồn qua cầu bằng xe