hoàn toàn không có vết tích nào của chị, nên đến gần trưa tôi đến trường
mình rồi quay lại Rarmkham-haeng vào lúc chiều muộn.
Tôi lảng vảng ở cổng Rarmkham-haeng cả một tuần nhưng không một
lần gặp được Jom hay thậm chí là Yong.
Những tia nắng cuối cùng đang giã biệt bầu trời. Cảnh tượng người
người hướng về nhà như những đàn chim bay về tổ làm dấy lên một cảm
giác cô đơn buồn bã lạ lùng. Cốc cà phê đen đã cạn đến giọt cuối cùng
nhưng tôi vẫn ngồi ở quán cà phê đó căng mắt nhìn người qua lại.
“Ơ, Béo! Cậu làm gì mà một mình ở đây thế này?” Dáng người vừa đi
vào quán dừng lại chào tôi với vẻ ngạc nhiên mừng rỡ,
“Chào, Chai!” tôi gọi. “Cậu biến đi đâu vậy?”
“Trường cũ của mình.” Chai chỉ ngón cái vào ngôi trường sau lưng
đoạn ngồi xuống ghế. “Trông cậu gầy đi đấy. Dạo này thế nào rồi? Đã bảo
rồi, cậu phải bình tĩnh với mấy cái chuyện này, phải từ từ thôi.”
“Biến đi!” Tôi hất bàn tay nó đang lắc lắc tay tôi ra.
“Bạn cũ gặp lại, mời mình một chầu whisky đi chứ?” Chai liếc mắt
liếm cặp môi khô.
“Ồ, ra là bây giờ cậu bắt đầu sa vào rượu chè rồi đấy hả?” Tôi quan sát
bộ dạng của thằng bạn lúc này luộm thuộm trông thấy. Nó gầy nhẳng và
đen sạm, má hóp lại, tóc dài rối bù. Chiếc áo sơ mi tay xắn quá khuỷu cũ
bẩn y hệt cái quần bò nó mặc.
“Cậu nói ‘sa vào’ là ý gì?” Chai cởi cúc áo lôi một quyển sách quăn
queo ra đặt lên bàn. “Tiện là mình uống. Lúc nào không có rượu mạnh,
mình chuyển sang rượu pha, thế thôi. Này, cho 250ml Maekhong, một chai
soda và hai cái cốc.”