đĩa hát khác vào đi, đĩa chúng ta ấy.” “Đương nhiên rồi,” tôi đồng tình, bắt
chước giọng của phát thanh viên trên đài thông báo: “Cô Jom muốn tặng ca
khúc này cho anh Béo nhân sinh nhật của anh. Khi bạn lắng nghe ca khúc,
xin hãy dành chút thời gian nghĩ tới người yêu cầu bài hát.” “Ngốc!” Jom
vơ mấy thanh kẹo lạc ném vào tôi. “Cậu điên rồi Béo!”
Tôi không bao giờ cầm bút chì lên ngay sau ngày hôm đó, còn Ning
cũng ngừng đọc sách sau cái ngày mẹ tống tất cả sách vở trong phòng nó
vào thùng rồi ném xuống cái đầm sau nhà.
Chúng tôi sống cuộc sống hờ hững và cách biệt. Không có gì khiến
chúng tôi nghĩ và hành động vì một mục đích nào đó. Chúng tôi còn không
có sức dù chỉ để mơ mộng. Mỗi đứa ở lì trong phòng, đêm đêm cuộn tròn
nhắm chặt mắt cố ngủ chỉ để thức dậy trong cô đơn và nghi ngờ.
Ning bắt đầu xử sự theo cái kiểu, như chúng tôi từng buộc cho nó, vô
nghĩa - để xõa tóc, mặc quần áo Ấn Độ và đeo nhiều vòng tay, đi chân đất
ra ngoài và chỉ nghe giai điệu của những cây đàn sitar cùng các loại nhạc
cụ Ấn Độ khác. Nhiều khi có mùi benzoin thoảng ra từ phòng nó. Tôi nghĩ
nó lén lút hút cần sa nhưng không bao giờ hỏi.
Tôi để tóc mọc lòa xòa và để ria, hoàn toàn không bận tâm tới quần áo
dù có bẩn và nhăn đến đâu, cho tới tận khi tôi bị cấm không được vào lớp
trừ phi cắt tóc và thay đồ mới. Mẹ bị gọi lên trường mấy lần để nhắc nhở.
Lần nào mẹ cũng bảo vệ tôi đến cùng, nhưng ngay khi về đến nhà là bà
suýt cầm dao cạo trọc đầu tôi.
Tôi không biết làm sao mà sống được qua khoảng thời gian đó, hay
thậm chí chúng tôi đã đánh mất điều gì khi ấy để có thể tiếp tục sống đến
bây giờ