con bú, thì phần âm huyết chia ra hai nẻo đi lên ngang vú cung cấp sữa cho
đứa trẻ. Lúc dứt sữa thì chất bổ được đổ vào tuần hoàn máu đỏ để bồi bổ
sung túc cho cơ thể, rồi kinh kỳ có trở lại. Nếu ở đàn ông thì mạch này đi
thẳng lên tĩnh mạch xương gánh bên trái hòa vào tuần hoàn máu đỏ để nuôi
khắp châu thân.
Thế là tuần hoàn âm huyết (máu trắng) phần ngoài dính liền với trời đất,
với Phổi và mặt da. Phần trong dính liền với bộ tiêu hóa để lấy chất bổ gồm
tinh hoa của cả phần khí và phần chất đem nuôi cơ thể (phần trong sâu mắc
liền với Thận để sung túc cho tủy óc, nuôi dưỡng gân xương). Vì thế tĩnh tọa
làm cho chất bổ được lấy hết, chế ra tinh hoa máu huyết, nhờ đó cơ thể được
tăng cường.
Hàng ngày, tai, mắt, miệng, mũi, thân, ý chúng ta phóng ra ngoài thì nhiệt
lực cơ thể bị hao phí. Khi đóng lại, nhiệt lực lập tức tăng cường. Mắt đừng
nhìn ra, tai đừng phóng vọt, mũi đừng thở mạnh, miệng ngậm thinh, tự
nhiên nhiệt lực trong thân tăng cường và bầu khí quyển xác thân trương nở.
Đó là vài nét cần được lưu ý.
Trong con người có hai hệ thống: trực giác và lý trí. Trực giác sai lầm
theo chiều hướng chúng sinh gọi là bản năng. Trực giác đúng xứng với bản
tánh gọi là tuệ giác. Lý trí sai lầm gọi là lý trí phân biệt mà Kinh Thánh Ky-
tô giáo gọi là bị ăn trái cấm. Nếu lý trí đúng với lý thì gọi là Trí Diệu Quan
Sát.
Trong sự hình thành cơ thể thì lý trí có sau. Vì có xác thân rồi, do đụng
chạm lần lần mới nảy ra cái biết, lý trí mới phát triển, nên lý trí mắc liền với
cơ cấu thần kinh hệ. Thần kinh là sản phẩm của lý trí, mắc liền vào tủy
xương sống và bộ óc. Hễ lý trí phát triển rắc rối tới đâu thì bộ thần kinh sẽ
rắc rối theo tới đó. Còn trực giác thường tình của chúng sanh là một hệ
thống tác động vào bao la không hoàn toàn máy móc. Trực giác bản năng
này ở loài cầm thú còn giữ được nguyên vẹn sức phản ứng của thiên nhiên
bảo vệ. Thí dụ: Con vẹt nhìn thấy màu vàng nó thích, tự nhiên lông nó ánh
ra màu vàng, trong khi đó con người không làm được thế.