Xúc nghĩa là hiện tượng dương tà hãm vào trong. Phàm biểu tà chưa hết,
khí tà đổ dồn về Dương Minh, hoặc khí tà phần lý muốn giải và truyền vào
Khuyết Âm đều thường thấy mạch này, nên triệu chứng phải thấy lồng ngực
đầy, đi tiêu chảy, khuyết nghịch. Cũng có khi huyết ứ phát cuồng, đàm thực
ngưng trệ, đột ngột giận dữ, khí nghịch cũng hiện mạch Xúc. Nếu trong
trống không ngưng trệ, mạch tự thư thái mà trường thì làm sao có hiện
tượng ngừng nghỉ.
24. KẾT
Nghĩa là kết lại, thấy dưới ngón tay trì hưỡn mà chính giữa có ngừng, giây
giây lại trở lại. Phàm Trì Hưỡn, Đợi, Sắc đều thuộc loại mạch Kết. Nhưng
mạch Đợi động rồi ngừng lâu, không thể tự trở lại liền.
Mạch Kết là khí huyết lần suy, tinh lực không nối tiếp làm do đứt rồi lại
nối, nối rồi lại đứt. Phàm hư lạc, bệnh lâu ngày thường thấy hiện tượng này,
nhưng cũng có phần âm hư, dương hư khác nhau. Nếu Kết mà Hưỡn là hư ở
phần dương, nếu Kết mà Sác là hư ở phần âm. Phải nên xét tướng kết lực ít
hay nhiều để biết nguyên khí suy hay thạnh. Nếu Kết quá nhiều, mạch rất
hữu lực, phần nhiều thuộc có nóng hoặc khí uất không điều hòa, trị nên dùng
vị tân ôn nâng đỡ khí chánh, kiêm chút tán kết để khai đàm, Kết tự lui. Có
khi suốt đời đều thấy mạch Kết. Trường hợp này là thọ bẩm dị thường,
không nên cho là mạch bệnh mà trị.
25. CÁCH
Nghĩa là căng thẳng như da trống, là biến cách dị thường, thấy Huyền mà
Sác, ở phần Phù thì cường trực (căng thẳng) mà đè xuống thì giữa trống.
Phàm mạch Khâu, Lao, Khẩn đều thuộc loại mạch Cách, khác hơn mạch
Khẩn vì mạch Khẩn đè xuống thấy bựt bựt, mạch Huyền thấy không dời đổi,
mạch Lao đè xuống thêm cứng.
Cách là hiện tượng biến cách. Phàm mất huyết, mất tinh, khí của Thận
bên trong quá mệt mỏi, và hoặc hư hàn đun đẩy nhau, nên mạch thấy nhu