hòa mà thấy ở giữa trống. Nếu không để ý đến Thận để bổ tinh, làm cho
tạng Mộc được thơi thới để giáng hàn, mà cho mạch Cách Phù thuộc biểu,
vọng dụng thẳng phát chơn âm không bị cáo tuyệt là điều ít có.
26. LAO
Nghĩa là kiên cố, kết sâu. Vì hiện Huyền đại mà trường, đè xuống thấy mạnh
thẳng, chống ngón tay tựa như dây đánh căng thật thẳng. Phàm mạch Thiệt,
Phục, Huyền, Sắc đều thuộc loại mạch lao. Nhưng mạch Thiệt thì hượt thiệt
chảy trơn. Mạch Phục thì ẩn núp, rít khó. Mạch Cách thì đè vào thấy giữa
trống.
Mạch Lao là hiện tượng tích kết cứng ở trong, là triệu chứng vị khí sắp
tuyệt. Nên hoặc thấy chứng thấp điệt (có khi đọc là kỉnh), co quắp, hàn sán,
bạo nghịch, tích cứng phục bên trong. Phép trị không phải dễ. Nếu không
xét nguyên nhân mà cho Lao là ở trong thiệt dùng vị đắng lạnh, hoặc nghĩ
do ăn uống bị đình trệ sanh đàm, thì bệnh càng thêm kết cứng.
27. TẬT
Nghĩa là nhanh, nhanh hơn Sác, trong một hô hấp có đến 7-8 nhịp mạch.
Mạch Động, Hượt, Hồng, Sác đều thuộc loại mạch Tật. Nhưng mạch Hồng
đã to và chỉ hơi mau, chớ không gấp rút như mạch Tật.
Mạch Tật hình như bởi khí dương cang thịnh không chế ngự được. Cũng
có trường hợp lạnh nóng âm dương thiệt giả khác nhau. Nếu quả mạch Tật
kèm theo Hồng Đại mà cứng mới đúng là chơn âm sắp tuyệt, thế dương cực
khó đàn áp. Nếu đè xuống thấy không dội tay thì lại là âm tà bạo ngược, hư
dương phát lộ. Nhưng tóm lại đều thuộc bệnh khó trị, bởi vì mạch Tật mà
kèm theo Hồng Đại sẽ khổ với bứt rứt, ngăn đầy. Tật mà Trầm Sác là bụng
đau, đều là hiện tượng âm dương sắp tuyệt. Chỉ đột ngột bất tỉnh, đột ngột
hiện chứng kinh, mạch thấy Cấp Sác phải đợi đến hơi bớt mới là không ngại.
Cũng có trường hợp mạch tuy thấy Tật mà hoặc không Đại không Tế thì
bệnh hãy còn có thể trị.