CHẨN ĐOÁN HỌC Y ĐẠO - Trang 51

Mạch Đới: Thì hai bộ Quan khẩn, nằm ngang mà hượt, có chứng bụng

đau, thắt lưng nghe lạnh lạnh như ngồi trong nước, là khí tà ở giữa.

Phàm 8 mạch này mỗi khi gặp 5 chứng giản, 7 chứng sán, gáy giựt, lưng

cứng, phát yết không chừng, chứng trong ngoài không nhất định, can cứng
không giềng mối, khác mạch tầm thường thì phải nhớ tìm về kỳ kinh bát
mạch.

II. MẠCH XUNG DƯƠNG - THÁI XUNG - THÁI KHÊ
Ba danh từ này là để chỉ cho 3 động mạch.

Xung Dương: Là mạch Vị, vị trí của nó ở miệng vòng đi lên 5 tấc, chỗ kẽ

xương. Động mạch đi lên này cách huyệt Hãm Cốc 3 tấc, bởi vì Thổ là mẹ
sinh ra vạn vật. Nếu thấy mạch Xung Dương không suy là vị khí hãy còn,
bệnh tuy nguy có thể cứu. Nhưng cũng kỵ Huyền cấp, e rằng Mộc vượng
khắc Thổ.

Mạch Thái Khê: Là mạch Thận, ở sau trên xương gót hai bên, động

mạch sờ có chỗ hũng, bởi vì Thủy là đứng đầu thiên nhất. Nếu mạch này
không suy thì có thể trị.

Mạch Thái Xung: Là mạch của Gan. Vị trí ở sau lóng gốc ngón chân cái

2 tấc có chỗ hũng. Tạng Gan là bắt đầu của sinh vật phương Đông, nếu
không suy thì bệnh có thể trị.

Nhưng ba mạch này chỉ có thể dùng để quyết định sống chết, chớ không

thể đoán bệnh.

III. MẠCH CAO CHƯƠNG CƯƠNG, TY ĐIỆP TỔN
Hai danh từ này là nhắm vào tượng mạch để đặt tên, vì Cao Chương Cương
là mạch đi lên, nổi đầy tràn lên trên, kích động ngón tay, còn Ty Điệp Tổn là
tượng mạch đi xuống, chìm sâu trệ xuống dưới, cấp sắc, không cất lên. Là ý
nói hiện tượng một âm một dương, phân biệt mà đặt tên vậy thôi.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.