Miên Khỏa Sa (như bông gói cát), nói như Thạch Đầu Thủy (đất ném xuống
nước). Như thế đều diễn tả loại mạch Trầm.
Vả chăng hệ thống của Đại thì nói Đại, nói Sác, nói Trường, nói Phù là
thuộc dương. Hệ thống của Tiểu thì nói Trì, Sắc, Đoản, Trầm đều thuộc loại
âm.
Tổng quát cương mục của mạch là như thế.
VII. CHỦ BỆNH
Theo chủ mạch của bệnh mà luận thì Phù là phong, Khẩn là hàn, Hư là thử,
Nhụ là thấp, Sác là ráo, Hồng là hỏa. Đó là của 6 khí ngoại cảm.
Vui mừng thái quá hại Tim, mạch Hưỡn; giận quá hại Gan, mạch Cấp;
ngại sợ hại Thận, mạch Trầm; kinh hãi hại Mật, mạch Động; nghĩ ngợi thái
quá hại Tỳ, mạch Trầm; lo quá hại Phổi, mạch Sác; bi thương thái quá hại
Tim, mạch Xúc. Đó là mạch thất tình thương tổn chủ bệnh như thế.
VIII. CHỨNG CHƠN TÒNG CHỨNG (chứng Thiệt theo chứng)
Nhưng tóm lại không thể vượt ngoài vòng âm dương, hư thiệt làm then chốt.
Bởi vì mạch Thiệt thì chứng phải Thiệt, hoặc hàn thiệt hoặc nhiệt thiệt.
Mạch Hư thì chứng phải Hư, hoặc Thủy suy hay Hỏa suy cũng thế. Nếu
mạch Thiệt mà chứng Hư thì chứng là thiệt mạch là giả. Mạch Hư chứng
Thiệt thì mạch là thiệt, chứng là giả. Nếu ngoài tuy bứt rứt nóng mà mạch
thấy Vi Nhược nhất định là hư hỏa. Bụng tuy trướng đầy mà mạch thấy Vi
Nhược, nhất định là Vị hư. Hư hỏa, Hư trướng làm sao theo nó. Như thế
phải theo mạch Hư, chớ nên theo chứng. Nếu chứng ngoài lạnh mà mạch
thấy Hượt Sác, nhất định là giả hàn. Nếu đi tiêu chảy rót nước mà mạch hiện
Trầm Thiệt, quyết định là giả đi tả, giả hàn, giả lợi, làm sao đủ để căn cứ.
Thế là phải theo mạch Thiệt chứ không nên theo chứng.
IX. MẠCH CHƠN TÒNG MẠCH (mạch Thiệt theo mạch)