Biển Hồ, JM dùng địa danh ngày nay, trong nguyên bản là Đạm
Dương, tức hồ nước ngọt, ND.
Can-Bàn, theo LH, có lẽ từ “danh từ Kongpom có nghĩa bến ghe
đậu… Đây là bến ghe đậu trên Biển Hồ thuộc tỉnh Siem Reap, từ đó người
ta đi đường bộ đến kinh đô Angkor”.
Mặc dù Angkor không được nêu tên ra, đó chính là thành phố mà
Chu Đạt Quan nói tới, chua của JM.
Nguyên bản là quyển “Chư Phiên Chí”, ND.
Phiên-Ngu, theo LH, không rõ thuộc vùng nào?
Đoạn này JM không hiểu hai chức quan “Hổ Phù Bá Hộ” và “Kim
Bài Thiên Hộ” trong nguyên bản nên dịch chung như thế, ND.
Trong bản dịch LH, không thấy ghi tư cách tùy viên thương mại này,
ND.
Nguyên bản ghi là năm Bính Thân, ND.
Huyện Minh Châu, theo LH nay là Ninh Ba (Ning-Po), Chiết Giang,
ND.
Theo bản dịch LH, đoạn này như sau: “Chúng tôi triều kiến Quốc
Vương (Chân Lạp) và trở về thuyền nhổ sào trong Tháng Sáu năm Đinh
Dậu, niên hiệu Đại Đức tức khoảng Tháng Sáu năm 1297, ND.
Bến Tứ Minh, theo LH, là một trấn thuộc Ninh Ba, Chiết Giang, ND.
Tác giả Pelliot xác định đây là Yasodharapura, thành phố được đặt
tên theo người xây dựng của nó, Yasavarman I, được dựng lên khoảng 900
sau Công Nguyên. Sự mô tả của Chu Đạt Quan phù hợp đáng kể với những
gì mà các nhà khảo cổ tìm thấy, chua của JM.