thiệp. Nhưng bây giờ thì mọi người cùng sống với nhau, trong một chái nhà
gỗ, trong ngõ nhỏ thuộc trại lính trung đoàn Semenov
, tất cả vật dụng đã
bị đem đi cầm cố hết, nên tôi phải giấu ông Versilov, dúi cho mẹ tôi sáu
chục rúp bí mật.
Đúng là số tiền bí mật, bởi vì đó là số tiền tiêu vặt năm rúp mỗi tháng
được tôi dành dụm trong vòng hai năm trời, việc dành dụm bắt đầu từ ngày
tôi nảy ra “ý tưởng”; bởi vậy ông Versilov nhất định không nên biết về số
tiền đó. Cho nên tôi phải giấu.
Sự giúp đỡ ấy chỉ như muối bỏ biển. Mẹ tôi làm thuê, em gái tôi cũng
khâu vá thuê; ông Versilov thì tiếp tục sống hoang phí với vô số thói quen
tốn tiền ngày trước. Ông cứ làu bàu gắt gỏng, nhất là trong bữa ăn, mọi cử
chỉ của ông đều hoàn toàn chuyên chế. Nhưng mẹ tôi, em gái tôi, dì
Prutkova và cả gia đình ông Andronikov quá cố (ông này từng làm quản
gia cho Versilov chừng ba tháng trước khi chết, gia đình ông toàn là phụ
nữ) đều tôn thờ ngài Versilov như thần tượng. Tôi không thể tưởng tượng
nổi cảnh bây giờ. Chín năm trước, trông ông lộng lẫy vô cùng. Như tôi đã
nói, ông vốn xuất hiện trong mơ ước của tôi giữa vòng hào quang, bởi vậy
tôi không tài nào tưởng tượng nổi sao ông có thể già đi, yếu đi đến thế chỉ
sau chín năm; tôi lập tức cảm thấy buồn, thương hại và xấu hổ. Cái nhìn
như thế về ông là ấn tượng đầu tiên nặng nề nhất đọng lại trong tôi lúc vừa
đến.
Cần nói thêm, ông hoàn toàn chưa phải là ông già. Ông chỉ mới bốn
mươi lăm tuổi, tiếp tục nhìn ông tôi thậm chí phát hiện trong vẻ đẹp của
ông có nét còn sắc sảo hơn cả hình ảnh đọng lại trong trí nhớ của tôi. Kém
lộng lẫy, ít duyên dáng hơn, nhưng hình như cuộc đời hằn trên khuôn mặt
ông nhiều điều bí ẩn hơn trước.
Sự nghèo túng chỉ chiếm một, hai phần mười trong các thất bại của
ông, tôi biết quá rõ điều đó. Ngoài sự nghèo túng, có cái nghiêm trọng hơn
nhiều, - chưa nói về việc còn le lói chút hi vọng thắng cuộc trong vụ kiện
thừa kế tài sản kéo dài một năm nay giữa ông Versilov với công tước