dưới hai con báo có cánh, bà vui mừng thốt lên, “Đây rồi!” và quay phần
đầu cán gươm về phía bọn con trai.
Chúng thấy một khoảng đen ở giữa – một rãnh hẹp được làm để tra cái gì
như là phần đuôi của một thanh gươm vào.
“Charlie,” bà Kettle nói, “nhấc thanh gươm lên.”
Charlie chùi hai bàn tay dính bồ hóng vô quần và nhẹ nhàng nâng dải
kim loại mỏng ở chuôi thanh gươm lên.
“Tốt, giữ chắc lấy,” bà Kettle ra lệnh.
Bà mỉm cười với chúng, nhưng Charlie có thể thấy là bà rất hồi hộp,
không dám tin chắc cán gươm có thể tra vừa thanh gươm. “Cao lên,
Charlie,” bà nói, giọng bà hơi run.
Charlie nâng thanh gươm lên thêm vài xăng-ti-mét nữa, và bà Kettle từ
từ tra cán gươm dải kim loại. Nó lách vô khe êm đến nỗi dường như có một
lực hấp dẫn kéo cánh của những con báo trôi xuống lưỡi gươm sáng loáng.
“Được làm để khớp nhau,” Tancred thở hắt ra.
Hầu như đồng thời với lời cậu nói, một cơn gió mạnh lùa qua sàn xưởng
rèn cùng với một tiếng thở phào phụt ra từ đâu đó sâu trong những bức
tường cổ xưa.
Charlie nhìn Tancred.
“Không phải anh,” Tancred nói, lo lắng nhìn quanh phòng.
“Đó là ngài Feromel,” bà Kettle bảo, một dòng nước mắt ngấn ướt mắt
bà. “Cảm ơn, Charlie. Ngài đã yên lòng rồi.” Bà đặt thanh gươm giờ đã
hoàn chỉnh vô hộp của nó và đóng nắp lại.