và mang nó xuống đất, rồi gã đặt nó xuống trước mặt Wilbur. Wilbur thở
phào nhẹ nhõm.
“Cảm ơn anh, Templeton,” nó nói. “Chừng nào tôi còn sống tôi sẽ không
bao giờ quên chuyện này.”
“Tôi cũng chẳng quên,” gã chuột vừa nói vừa xỉa răng. “Tôi có cảm tưởng
như tôi đã xơi phải một cuộn chỉ vậy. Giờ thì về nhà thôi!”
Templeton lẻn ngay vào trong hòm và vùi mình trong đám rơm. Gã lặn đi
vừa đúng lúc. Lurvy và John Arable và ông Zuckerman bước tới ngay lúc
đó, theo sau là bà Arable và bà Zuckerman và Avery và Fern. Wilbur cũng
đã quyết định cách mà nó sẽ mang cái bọc trứng - chỉ có một cách duy nhất
khả dĩ. Nó cẩn thận ngậm cái bọc nhỏ trong miệng và giữ nó ở trên đầu
lưỡi. Nó nhớ điều Charlotte đã nói với nó - rằng cái bọc không thấm nước
và rất bền chắc. Trong lưỡi nó cảm thấy cứ kỳ kỳ và nó bị chảy nước dãi tí
chút. Và dĩ nhiên là nó không thể nói năng gì cả. Nhưng khi nó bị đẩy vào
trong hòm, nó ngước lên nhìn Charlotte và nháy mắt với chị. Chị biết rằng
nó đang chào tạm biệt theo cách duy nhất có thể. Và chị biết rằng lũ con chị
đã được an toàn.
“Tạm biệt!” chị thầm thì. Rồi chị thu hết sức lực và giơ một chân trước lên
vẫy nó.
Chị không bao giờ cử động nữa. Ngày hôm sau, khi cái vòng đu quay được
tháo rời ra và bầy ngựa đua được đưa vào các xe tải và những người làm trò
mua vui sắp dọn đồ đạc rồi ra đi trên các xe moóc, Charlotte đã chết. Khu
Hội chợ mau chóng trở nên hoang vắng. Các lán trại và nhà xưởng đều
trống rỗng và đìu hiu. Trong sân bãi vứt ngổn ngang chai lọ với rác rưởi.
Không một ai, trong số hàng trăm người đi dự Hội chợ, biết rằng có một
con nhện xám đã đóng một vai trò lớn hơn tất cả. Không một ai ở bên nó
khi nó chết.