chương, cậy nhờ tôi giảng giải. Tôi gắng trình bày dễ hiểu hết mức. Tấm
huy chương tròn bằng bạc, một mặt có hình đầu Britannia
, còn mặt kia là
dòng chữ: Cuộc chiến vĩ đại vì nền văn minh.
Sau này tôi có kể cho mấy người bạn Anh về những tấm huy chương, và họ
hỏi: “Cớ gì trên huy chương không là hình đầu Hoàng Đế nhỉ? Rõ là một
sai sót lớn.” Cá nhân tôi không nghĩ vậy, huy chương không cần trông quá
thu hút và toàn bộ sự thể đã được thu xếp rất ổn. Nếu có được công trạng gì
lớn lao, buổi lễ tưởng thưởng một mai dành cho chúng ta ở chốn thiên
đường cũng chỉ được đến mức ấy là cùng.
Dạo Berkeley lâm bệnh, tôi đang sửa soạn đi nghỉ ở châu Âu. Khi ấy anh là
thành viên ngồi trong Hội đồng lập pháp xứ thuộc địa và tôi đánh điện qua
thế này: “Sao anh không qua đây ngồi Hội đồng nâng li ở Ngong.”
Berkeley gửi điện phúc đáp: “Bức điện của cô là từ thiên đường. Sắp mang
rượu qua.” Nhưng lúc tới đồn điền, anh chẳng động đến một giọt, dẫu xe ô
tô chất đầy rượu vang. Berkeley nom rất nhợt nhạt, thậm chí lắm lúc còn
chẳng buồn cất lời. Trái tim bệnh hoạn khiến anh không thể hoạt động nếu
thiếu Jama, người được dạy cách tiêm thuốc trợ tim cho ông chủ. Berkeley
lại còn bị nỗi âu lo đè nặng do sợ mất khu điền trang. Dẫu vậy, bằng sự
hiện diện của mình, anh đã biến nhà tôi thành một chốn nương náu dễ chịu,
độc nhất vô nhị trên trần gian.
“Tania
ạ, tôi đã đến cái ngưỡng,” anh nghiêm trang bảo tôi, “chỉ có thể lái
những chiếc xe êm nhất, chỉ hút được những điếu xì gà hảo hạng nhất và
chỉ uống được những loại vang đầu bảng.” Trong thời gian trú ở chỗ tôi,
một tối anh kể rằng bác sĩ đã yêu cầu anh phải nằm yên tĩnh dưỡng một
tháng. Tôi nói nếu anh làm theo đề xuất nọ, và nghỉ ngơi trên giường tại
Ngong một tháng, tôi sẽ ở lại chăm sóc anh, và hoãn chuyến đi châu Âu
qua sang năm. Berkeley cân nhắc lời đề nghị của tôi trong giây lát. “Bạn
ạ,” anh nói, “tôi không thể. Nếu làm vậy nhằm khiến cô vui lòng thì cái
thằng tôi còn ra gì nữa đây?”